Trong đó, kết hợp phát triển KT-XH với xây dựng nguồn lực động viên quốc phòng (ĐVQP), trong đó có hậu cần, là nội dung quan trọng nhằm chuẩn bị mọi nguồn lực của đất nước ngay từ thời bình để chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa, đồng thời sẵn sàng đối phó và giành thắng lợi trong các tình huống quốc phòng.

Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: Sức mạnh quân sự quốc gia là tổng thể các lực lượng vật chất, tinh thần của một nước và khả năng huy động những lực lượng ấy nhằm đạt mục tiêu của chiến tranh và nhiệm vụ quốc phòng của đất nước. Thực tiễn trong lịch sử của dân tộc ta cho thấy, cha ông ta luôn chú trọng kết hợp phát triển KT-XH với xây dựng nguồn lực động viên để sẵn sàng huy động nhân lực, vật lực, kịp thời đáp ứng nhu cầu chiến tranh. Vì vậy, chính sách “Ngụ binh ư nông”, “Tịnh vi nông, động vi binh” trở thành quốc sách để giữ nước.

Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện kết hợp phát triển KT-XH với xây dựng nguồn lực ĐVQP đã làm cho tiềm lực quốc phòng ngày càng vững mạnh. Nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân và khu vực

phòng thủ (KVPT) tỉnh, thành phố được xây dựng, củng cố ngày càng vững chắc. Nhiệm vụ bảo đảm QP, AN đã từng bước kết hợp chặt chẽ với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Các khu kinh tế quốc phòng được chỉ đạo xây dựng, phát huy tốt vai trò nòng cốt, tham gia phát triển KT-XH ở địa bàn chiến lược, đặc biệt khó khăn. Từng bước bố trí lại dân cư theo quy hoạch phát triển KT-XH gắn với bảo đảm quốc phòng.

Các cơ sở động viên công nghiệp được đầu tư, xây dựng, duy trì sản xuất, sửa chữa, vừa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phục vụ dân sinh và vừa phục vụ nhu cầu quốc phòng trong thời bình, đồng thời sẵn sàng động viên cho các tình huống quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc...

Tuy nhiên, nhận thức về chủ trương kết hợp phát triển KT-XH với tăng cường QP, AN, xây dựng nguồn lực ĐVQP còn có lúc,  có nơi còn chưa đầy đủ, sâu sắc. Xây dựng tiềm lực, lực lượng, thế trận quốc phòng của một số ngành, địa phương chưa thật sự vững chắc. Công tác phối hợp giữa các cấp các ngành, các địa phương còn chưa chặt chẽ; chưa coi trọng đúng mức việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH gắn với tăng cường QP, AN, xây dựng nguồn lực ĐVQP; xây dựng nguồn lực động viên trong các thành phần kinh tế tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn có nhiều khó khăn, phức tạp.

Đầu tư xây dựng khu vực phòng thủ một số địa phương chưa tương xứng với tiềm năng, tốc độ phát triển kinh tế. Do đó, khả năng dự trữ và huy động các nguồn lực động viên cho quốc phòng có ngành, địa phương, đơn vị còn hạn chế. Vì vậy, để thực hiện kết hợp phát triển KT-XH với xây dựng nguồn lực ĐVQP hiệu quả, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau đây:

Một là, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt và triển khai thực hiện tốt chủ trương kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng.

Đây là giải pháp  quan  trọng có ý nghĩa quyết định tới việc kết hợp phát triển KT-XH với xây dựng nguồn lực ĐVQP; thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, mọi thắng lợi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, cũng như trong công cuộc đổi mới của  đất  nước  luôn cần  phải tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt và triển khai thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng.

Vì vậy, để việc kết hợp phát triển KT-XH với xây dựng nguồn lực ĐVQP đúng hướng, hiệu quả cần chú trọng tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt và triển khai thực hiện tốt chủ trương kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng.

Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể các cấp đẩy mạnh tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm Kết luận số 57-KL/TW, gắn với thực hiện Nghị quyết số 55/NQ-CP ngày 03/8/2015 của Chính phủ ban hành chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW Hội nghị BCHTW Đảng lần thứ 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Chỉ đạo hướng dẫn và tổ chức các hoạt động thông tin, tuyên truyền về kết hợp QP, AN với kinh tế, kinh tế với QP, AN trên các phương tiện thông tin đại chúng. Bồi dưỡng nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược về chủ trương kết hợp QP, AN với kinh tế, kinh tế với QP, AN; trong đó chú trọng xây dựng nguồn lực ĐVQP.

Hai là, nâng cao năng lực thực hiện, xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách huy động nguồn lực động viên cho quốc phòng.

Hiện nay, hệ thống các văn bản pháp luật, cơ chế vận hành, các chính sách huy động nguồn lực động viên cho quốc  phòng đã được Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và ban hành khá đầy đủ, đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ quốc phòng trong hiện tại. Tuy nhiên, các yếu tố chi phối đến huy động nguồn lực động viên cho quốc phòng luôn vận động phát triển không ngừng.

Quy định của pháp luật và chính sách đang vận dụng trong huy động nguồn lực động viên cho quốc phòng có những quy định không còn phù hợp; một số hoạt động thực tiễn chưa có quy định cụ thể của pháp luật. Vì vậy, các bộ, ngành Trung ương và các địa phương cần tiếp tục chủ động tham mưu với Đảng, Nhà nước hoàn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách huy động nguồn lực động viên cho quốc phòng.

Nội dung tập trung vào hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách kết hợp phát triển KT-XH với xây dựng và huy động nguồn lực động viên cho quốc phòng. Tập trung xây dựng cơ chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm thực hiện hiệu quả chủ trương kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng.

Rà soát, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo Kết luận số 57-KL/TW, tạo điều kiện thuận lợi thực hiện kết hợp chặt chẽ phát triển KT-XH với tăng cường QP, AN trong từng chủ trương, chiến lược, chính sách, kế hoạch phát triển và trong từng đề án, dự án cụ thể. Tập trung vốn đầu tư cho nghiên cứu khoa học, công nghệ, nghiên cứu thiết kế, chế tạo, sửa chữa vũ khí trang bị đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Ba là, đẩy mạnh kết hợp phát triển KT-XH với xây dựng nguồn lực ĐVQP trong các ngành, lĩnh vực chủ yếu.

Đối với công tác quy hoạch, kế hoạch cần tập trung rà soát bổ sung, hoàn thiện quy hoạch, kế hoạch, cơ chế đầu tư đối với các dự án ở những địa bàn chiến lược, trọng điểm, những khu vực xung yếu về quốc phòng, an ninh. Chú trọng quy hoạch, thiết kế, xây dựng các công trình có tính lưỡng dụng, sẵn sàng phục vụ  nhiệm vụ quốc phòng khi cần thiết.

Rà soát bổ sung, hoàn thiện kế hoạch động viên quốc phòng. Hằng năm chú trọng bổ sung, điều chỉnh kế hoạch động viên bảo đảm nhu cầu quốc phòng năm đầu chiến tranh gắn với quy hoạch phát triển KT-XH của từng vùng và cả nước. Triển khai thực hiện hiệu quả quy hoạch tổng thể bố trí quốc phòng với phát triển KT-XH. Thực hiện đúng quy trình, tổ chức thẩm định chặt chẽ đối với những chương trình, đề án, dự án hợp tác quốc tế đầu tư nước ngoài vào địa bàn chiến lược về QP, AN.

Quy hoạch mạng lưới đường bộ; đường sắt; hệ thống cảng, biển; đường thủy nội địa; cảng hàng không gắn với xây dựng thế trận, tiềm lực quân sự. Kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng bằng việc“ngầm hóa”, lưỡng dụng các công trình giao thông, thủy lợi và công trình đô thị; quản lý chặt chẽ và khai thác, sử dụng hiệu quả các sân bay, bến cảng và kết cấu hạ tầng quan trọng khác phục vụ nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng đất quốc phòng theo Kết luận số 59-KL/TW của Bộ  Chính trị; khai thác hiệu quả tiềm năng đất đai và lực lượng lao động để bảo đảm an ninh lương thực và dự trữ quốc gia cho quốc phòng và phòng thủ dân sự; phát triển đa dạng các ngành nghề, góp phần xây dựng tiềm lực KT-XH trong thời bình; sẵn sàng bảo đảm quốc phòng khi có tình huống.

Quy hoạch mạng lưới y tế cơ sở phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ phát triển KT-XH và QP, AN; xây dựng mô hình quân dân y kết hợp ở các cấp trên địa bàn của cả nước, chú trọng ở địa bàn trọng yếu, vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo.

Phát triển khoa học, công nghệ phục vụ dân sinh phải gắn với các ngành khoa học, công nghệ quân sự và xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng.

Kết hợp phát triển KT-XH, quản lý đất đai, khoáng sản, tài nguyên rừng gắn với xây dựng nguồn lực động viên quốc phòng, nhất là nguồn khoáng sản, nguyên liệu, nhiên liệu phục vụ cho sản xuất của công nghiệp quốc phòng.

Các ngành, lĩnh vực khác khi xây dựng, triển khai quy hoạch, kế hoạch, chiến lược, dự án phát triển KT-XH phải bảo đảm sẵn sàng phục vụ quốc phòng khi có yêu cầu; sản phẩm của các ngành, lĩnh vực vừa phục vụ nhu cầu dân sinh thời bình và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu quốc phòng trong mọi tình huống.

Đẩy mạnh xây dựng khu kinh tế - quốc phòng, góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển KT-XH, đồng thời xây dựng nguồn lực ĐVQP vững mạnh trên các địa bàn trọng điểm.

Bốn là, phát triển công nghiệp quốc gia tạo nền tảng cho công nghiệp quốc phòng; ưu tiên tập trung đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng trở thành mũi nhọn của nền công nghiệp quốc gia, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đây vừa là quan điểm của Đảng ta và cũng là nhiệm vụ, giải pháp  để xây  dựng và  phát triển công nghiệp quốc gia, công nghiệp quốc phòng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Theo đó cần tập trung thực hiện tốt việc khảo sát, đánh giá thực trạng năng lực hiện có và triển vọng phát triển. Xây dựng và hoàn thiện kế hoạch phát triển công nghiệp quốc phòng dài hạn, trung hạn; xây dựng mô hình tổ chức công nghiệp quốc phòng Việt Nam phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới; quy hoạch xây dựng lại các doanh nghiệp quốc phòng theo mô hình hiện đại, hiệu quả phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN ngày càng hội nhập quốc tế sâu rộng; sắp xếp, bố trí các cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt, cơ sở động viên công nghiệp phù hợp với thế trận tác chiến chiến lược và sẵn sàng bảo đảm cho nhiệm vụ quốc phòng.

Huy động tiềm lực khoa học, công nghệ dân sinh tham gia các hoạt động công nghiệp quốc phòng và động viên công nghiệp. Huy động vốn đầu tư cho xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng và cơ sở động viên công nghiệp. Tăng cường hợp tác quốc tế về công nghiệp quốc phòng. Từng bước hòa nhập công nghiệp quốc phòng vào công nghiệp quốc gia, góp phần phát triển công nghiệp quốc gia ngày càng vững mạnh.

Năm là, đẩy mạnh xây dựng KVPT vững chắc, tăng cường nguồn lực ĐVQP tại chỗ của các địa phương.

Triển khai thực hiện nghiêm túc Kết luận số 64-KL/TW ngày 30-10-2019 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 22/9/2008 về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành KVPT vững chắc trong tình hình mới. Triển khai thực hiện Nghị định số 21/2019/NĐ-CP  ngày  22-2-2019 của Chính phủ về KVPT.

Tăng cường đầu tư và nâng cao chất lượng, hiệu quả xây dựng, hoạt động KVPT đáp ứng yêu cầu xây dựng thế trận và tiềm lực quốc phòng tại chỗ, liên kết chặt chẽ trong thế trận phòng thủ quân khu và cả nước. Coi trọng xây dựng, hoàn thiện quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH gắn với xây dựng cơ sở, vật chất, phương tiện, tài chính, khoa học, công nghệ, sẵn sàng huy động phục vụ cho nhiệm vụ quốc phòng. Chú trọng xây dựng nguồn  nhân  lực,  nhất là lực lượng dự bị động viên đủ số lượng, vững mạnh về mọi mặt, sẵn sàng bổ sung kịp thời cho lực lượng thường trực của Quân đội và mở rộng dân quân tự vệ trong các trạng thái quốc phòng.

Xây dựng củng cố thế trận lòng dân; tích cực tham gia hỗ trợ các địa phương và Nhân dân thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững; thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước; chăm lo xây dựng kinh tế của Nhân dân nhằm nâng cao đời sống của Nhân dân, đồng thời tăng cường khả năng động viên hậu cần, kỹ thuật tại chỗ của KVPT.

Sáu là, nâng cao hiệu quả hội nhập và hợp tác quốc tế để phát triển kinh tế, tăng cường nguồn lực ĐVQP.

Quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc đường lối đối ngoại của Đảng: độc lập, tự chủ, đa phương hóa,  đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam.

Xử lý tốt mối quan hệ với các nước lớn, giảm thiểu tối đa những áp lực từ bên ngoài đối với phát triển kinh tế, giữ vững QP, AN của đất nước. Tiếp tục đưa quan hệ đối tác về kinh tế, QP, AN, nhất là các đối tác chiến lược và đối tác toàn diện đi vào chiều sâu, thực chất, góp phần nâng cao vị thế và phát sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, chỉ huy trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, toàn dân tham gia, LLVT quân khu làm nòng cốt về quốc phòng, quân sự trên địa bàn quân khu.

Theo đó công tác hậu cần PTQK đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Chính phủ. Chỉ huy, điều hành của tư lệnh quân khu đối  với  hậu  cần  LLVT  quân khu; người đứng đầu cơ quan, tổ chức, lực lượng đối với hậu cần các cơ quan, tổ chức, lực lượng trên địa bàn. Chỉ đạo của Ban Chỉ đạo quân khu về PTQK; chỉ đạo theo chuyên ngành của cơ quan cấp trên: Bộ, ngành Trung ương đối với hậu cần nhân dân KVPT tỉnh, thành phố, hậu cần chiến lược đối với Cục Hậu cần quân khu, Cục Hậu cần quân, binh chủng, ngành, bệnh viện, học viện, trường (cơ quan hậu cần cấp trên), đối với cơ quan hậu cần các đơn vị, cơ sở trực thuộc đứng chân huy lợi ích kinh tế, QP, AN. Tranh thủ tối đa các điều kiện bên ngoài để thúc đẩy phát triển KT-XH; tạo môi trường đầu tư lành mạnh để thu hút đầu tư từ nước ngoài và tiếp thu kinh nghiệp quản lý kinh tế, thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ tiến tiến.

Tăng cường hợp tác quốc phòng, chuyển giao công nghệ nghiên cứu khoa học, chế tạo sản phẩm công nghiệp, sản phẩm đặc dụng, chuyên dụng, lưỡng dụng phục vụ nhiệm quốc phòng. Đẩy mạnh hợp tác quốc phòng song phương và đa phương; tăng cường hợp tác với các nước về lĩnh vực hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa; tiếp tục tham gia có hiệu quả vào hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc.

 Trong tương lai, kết hợp phát triển KT-XH với xây dựng nguồn lực ĐVQP sẽ có sự phát triển mới cùng với sự phát triển của tình hình thế giới, khu vực, trong nước và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Để tiến hành xây dựng nguồn lực ĐVQP hiệu quả, cần phải thường xuyên nghiên cứu, quán triệt, nắm vững quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về kết hợp phát triển KT-XH với tăng cường QP, AN, vận dụng vào thực tiễn linh hoạt, sáng tạo; đồng thời thực hiện đồng bộ các giải pháp kết hợp phát triển KT-XH với xây dựng nguồn lực ĐVQP phù hợp với tình hình mới.

Đại tá, TS LÊ ĐỨC TIẾN, Chủ nhiệm Khoa Hậu cần - Kỹ thuật/Học viện Quốc phòng