Tháng 9-1952, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Tây Bắc, cử Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh Chiến dịch. Lực lượng tham gia gồm: Các Đại đoàn 308, 312 và 316 (thiếu), Tiểu đoàn 910/Trung đoàn 148, 6 đại đội sơn pháo 75 mm, 03 đại đội súng cối 120 mm, 01 trung đoàn công binh, 11 đại đội bộ đội địa phương, tổng quân số 35.000 người. Thời gian Chiến dịch dự kiến trong 4 tháng. Nhu cầu vật chất gồm: 5.250 tấn lương thực, thực phẩm (có 4.335 tấn gạo), 127 tấn vũ khí đạn; dự kiến 5.000 thương binh (TB)...

leftcenterrightdel
Bộ đội ta hành quân trong chiến dịch Tây Bắc 1952. Ảnh tư liệu 

Ngày 14-10-1952, Chiến dịch mở màn, qua 3 đợt tác chiến, ngày 10-12-1952, Chiến dịch kết thúc thắng lợi. Ta diệt và bắt hơn 6.000 tên địch, giải phóng một vùng rộng 30.000 km2 với 250.000 dân ở địa bàn chiến lược quan trọng, nối liền vùng giải phóng Tây Bắc với căn cứ địa Việt Bắc và Thượng Lào, giữ vững thế chủ động tiến công, làm thất bại âm mưu mở rộng chiếm đóng của địch. Tổng Quân ủy đánh giá:“Thắng lợi của Chiến dịch đặt nền tảng cho một căn cứ địa mới - căn cứ địa Tây Bắc. Rồi đây, dù tình hình trở nên khó khăn hay thuận lợi, căn cứ địa Việt Bắc và Tây Bắc sẽ là một căn cứ bảo đảm cho cuộc kháng chiến lâu dài của chúng ta, sẽ có ảnh hưởng đối với cách mạng Lào”.

 Trong Chiến dịch này, Hậu cần đã bảo đảm 9.360 tấn gạo, 164 tấn muối, 195 tấn thịt, 33 tấn đạn dược, cứu chữa 2.535 TB, góp phần quan trọng vào thắng lợi. Để có kết quả trên, Hậu cần Chiến dịch (HCCD) đã huy động hơn 1.000 tấn lương thực; 191.000 lượt dân công (hơn 7 triệu ngày công); 1.101 xe đạp thồ; 258 xe trâu, bò; 556 thuyền vận tải, 2 phà, 8 ca nô tại 10 tỉnh thuộc các Liên khu Việt Bắc, 3, 4 và vùng giải phóng Tây Bắc. Công tác HCCD Tây Bắc để lại nhiều kinh nghiệm quý về chỉ huy, chỉ đạo, huy động nhân lực, vật lực, bám sát thực tiễn trong tổ chức bảo đảm cho chiến dịch lớn, dài ngày, điều kiện tác chiến khó khăn, ác liệt... Có thể khái quát như sau:

Một là, thực hiện hậu cần chủ động đi trước một bước trong chuẩn bị chiến trường.

Sau khi có chủ trương của Trung ương, trên cơ sở nắm chắc tình hình, thấy rõ những khó khăn, từ tháng 5-l952, Tổng cục Cung cấp (TCCC) đã chủ động, tích cực chuẩn bị chiến trường, phân công 3 đồng chí đảng ủy viên trực tiếp chỉ đạo hướng Tây Bắc. Ở Việt Bắc, Chủ nhiệm TCCC Trần Đăng Ninh và Cục trưởng Cục Quân nhu Nguyễn Thanh Bình chỉ đạo; Phó chủ nhiệm TCCC Đặng Kim Giang chỉ đạo Liên khu 3, 4. Tháng 7-1952, Trung ương quyết định thành lập Ban cán sự Đường 41 để chỉ đạo mở đường và chuẩn bị phục vụ chiến dịch. Liên khu Việt Bắc, tổ chức mở đường dọc theo bờ tả ngạn sông Hồng từ Phú Thọ đến Yên Bái; tu sửa đường sắt Yên Bái - Mậu A để cam nhông ray kéo một toa tàu có thể chạy thường xuyên.

Các địa phương khẩn trương thu thuế nông nghiệp, tổ chức xay giã, chuyển gạo đến khu vực tập kết và bến vượt sông Hồng. Liên khu 3 sửa đường từ Ghềnh, Nho Quan (Ninh Bình) đi Hòa Bình; sửa Đường 41 từ Hòa Bình qua Chợ Bờ đến Suốt Rút; chuẩn bị và chuyển gạo từ Yên Mô, Yên Khánh (Ninh Bình) lên Chợ Bờ, Suối Rút. Liên khu 4 sửa đường từ Thanh Hóa lên Ngọc Lặc, Hồi Xuân, Bãi Sang và chuyển gạo từ Tĩnh Gia lên. Trong ba tháng hè năm 1952, Liên khu 3, 4 sửa được 170km đường ô tô, 150 km đường vận tải bộ; huy động được 5.254 tấn gạo, chuyển đến Suốt Rút - Bãi Sang còn 1.390 tấn (do dân công tiêu thụ hơn 70%).

Hai là, tổ chức bộ máy, thế trận hậu cần Chiến dịch hợp lý; chỉ huy, chỉ đạo khoa học, bám sát thực tiễn, bộ đội.

Tháng 9-1952, sau khi Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Tây Bắc, bộ máy HCCD được thành lập. Sở chỉ huy Tiền phương TCCC đặt tại Yên Bái do Chủ nhiệm Tổng cục trực tiếp chỉ huy, có nhiệm vụ huy động nhân lực, vật lực ở hậu phương và tổ chức việc rải trạm phục vụ bộ đội hành quân vào khu vực chiến đấu. Phó Chủ nhiệm HCCD và Cục trưởng Cục Quân nhu đi với Sở chỉ huy cơ bản Chiến dịch; Ban cán sự Đường 41- đặt sở chỉ huy ở Suối Rút, phụ trách việc huy động nhân lực, vật lực từ Liên khu 3, 4 lên và bảo đảm cho hướng Đường 41 trong đợt 2 Chiến dịch.

Trên hướng chủ yếu (phân khu Nghĩa Lộ), HCCD tập trung hơn 2.000 tấn gạo và 38.000 dân công ở Yên Bái (tả ngạn sông Hồng), phục vụ các đơn vị hành quân vào vị trí tập kết và rải trạm theo đường tiến quân vào Tây Bắc. Đêm ngày 10 và 11-10-1952, các đơn vị vượt sông Hồng, bí mật tiến quân vào Tây Bắc. Trong 3 đêm tiếp theo, HCCD chuyển hơn 1.000 tấn gạo, đạn và thực phẩm (có trâu, bò) vượt sông Hồng ở các bến Mậu A, Cổ Phúc, Âu Lâu; 02 phà và 432 thuyền (có 415 thuyền nan trọng tải 4 - 5 tạ) được huy động để bảo đảm vượt sông. Dân công vượt sông theo từng đại đội, mang theo hàng hóa, sau đó rải trạm trên ba tuyến.

Tuyến Âu Lâu vào Ca Vịnh - Ba Khe khá thuận lợi, nhưng tuyến Cổ Phúc - Sài Lương và tuyến Mậu A - Khâu Vác - Nậm Mười rất khó khăn do đường nhỏ hẹp, trơn lầy, nhiều đèo dốc, sông suối, có nơi phải bắc “cầu khỉ”. Từ Mậu A đến Nậm Mười phải vượt qua 4 đèo cao (đèo Khe Giang, Quế, Khâu Vác nhỏ, Khâu Vác lớn), tổ chức 7 cung, trong khi lực lượng hành quân trên tuyến này rất lớn. Bộ đội chưa tới Nghĩa Lộ, Gia Hội nhưng dân công đã vào tuyến, chưa kịp rải trạm đã bị ùn tắc. Dân công chờ đợi, phải ăn gạo dùng để bảo đảm cho bộ đội.

Theo kế hoạch, từ ngày 15-10, phải đưa đến Nậm Mười 14,8 tấn gạo/ngày, nhưng 3 ngày sau, gạo mới đến (ngày cao nhất 7 tấn, ngày thấp gần 1 tấn). Trong 20 ngày, tuyến vận tải Khâu Vác chỉ chuyển vào Nậm Mười được 83 tấn gạo (đạt 28% kế hoạch); tuyến Cổ Phúc - Sài Lương chỉ chuyển được 3 tấn gạo/ngày (đạt 50% kế hoạch), toàn đợt chuyển được 40 tấn (60% kế hoạch). Sở chỉ huy tiền phương TCCC thiếu kiểm tra, đôn đốc, không nắm được khó khăn, trong chỉ huy, chỉ đạo có phần chủ quan nên hai tuyến này không hoàn thành nhiệm vụ. Tư lệnh Chiến dịch nghiêm khắc phê bình, Chủ nhiệm HCCD nhận trách nhiệm về mình, cùng cán bộ các cấp nghiêm túc rút kinh nghiệm, động viên bộ đội và dân công kiên quyết khắc phục khó khăn, thiếu sót để phục vụ tác chiến.

Ba là, chỉ huy, chỉ đạo chặt chẽ việc kết hợp giữa HCCD và các địa phương trong huy động nguồn lực; tập trung bảo đảm cho tác chiến, tích cực chuẩn bị cho đợt tiếp theo.

Đợt 1: (14 đến 23-10-1952): Ngày 14-10-1952, Chiến dịch mở màn tiêu diệt các mục tiêu Ca Vịnh, Sài Lương. Tiếp đó, ta diệt phân khu Nghĩa Lộ, Pú Chạng, Cửa Nhì, bức địch rút khỏi Gia Hội, Tú Lệ. Ở hướng Phù Yên, các vị trí Gia Phù, Bản Mo bị tiêu diệt, địch ở tiểu khu Phù Yên rút chạy... Nhiều trận công đồn ác liệt đã diễn ra, TB lên tới 1.014 người. Ta triển khai 03 đội điều trị (1, 2, 5) ở Nghĩa Lộ, Nậm Mười, Ca Vịnh, Ba Khe cùng đội điều trị các đại đoàn cứu chữa TB. Nhưng do thiếu lực lượng, phương tiện và đường sá khó khăn, việc chuyển TB về tuyến sau còn chậm, có lúc bị ứ đọng ở các đơn vị. Vì vậy, Đội điều trị 1 được mở rộng thành bệnh viện dã chiến để cứu chữa TB. Đợt 1 kết thúc ngày 23-10-1952, ta giải phóng khu vực rộng lớn từ Quỳnh Nhai đến Vạn Yên, trong đó có các cánh đồng Nghĩa Lộ, Quang Huy, Than Uyên là cơ sở huy động nguồn lực trong đợt sau.

Chuẩn bị cho đợt 2, Bộ Chỉ huy Chiến dịch yêu cầu các đơn vị tổ chức lực lượng tham gia sửa đường, vận chuyển gạo, đạn, TB. HCCD được trang bị một số phương tiện thông tin vô tuyến và hữu tuyến để chỉ huy các tuyến vận tải. Tuyến Khâu Vác và Sài Lương giải thể (vì không còn thích hợp), lực lượng đưa về Đường 13, tổ chức tuyến vận tải Âu Lâu - Ba Khe - Tông Cao - Gia Phù; đồng thời khẩn trương củng cố tuyến Thu Cúc - Quang Huy - Tông Cao; mở đường và chuẩn bị tổ chức tuyến vận tải Tông Cao - Suối Cao - Tạ Khoa nối với Đường 41 ở Cò Nòi và mở tuyến vận tải xuống Vạn Yên nối với Đường 41 ở Xồm Lồm. Liên khu Việt Bắc huy động gấp thêm 12.000 dân công, Liên khu 4 huy động 11.000 dân công. Nhiều cán bộ trung, cao cấp được tăng cường để tổ chức chỉ huy các đoàn dân công trên Đường 41; các trạm bố trí cung độ hợp lý, đời sống dân công được quan tâm hơn. Trên Đường 41 đoạn từ Suối Rút qua Mộc Hạ đến Xồm Lồm (64km); trên Đường 13, đoạn từ Yên Bái đến Ba Khe (61km) được tu sửa cho ô tô vận chuyển. Toàn bộ dân công, vận tải bộ hai tuyến này được dồn lên phía trước; hoàn thành sửa đường cho ô tô chạy đến Tông Cao, Gia Phù. Nhờ vậy, việc chuẩn bị đợt 2 thuận lợi hơn đợt 1.

Thực hiện “Tám điều mệnh lệnh của Chính phủ cho bộ đội và Nhân dân vùng mới giải phóng” do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành, các đơn vị vừa đánh địch, vừa làm công tác dân vận, quản lý, sử dụng hợp lý chiến lợi phẩm. Nhiều đơn vị gặt lúa giúp dân, cùng cán bộ địa phương vận động đồng bào bán gạo cho bộ đội và đi dân công phục vụ Chiến dịch. Đồng bào Tây Bắc đã đóng góp 1.140 tấn gạo, 40 tấn thịt, 15.000 lượt người đi dân công (150.000 ngày công). Riêng Nghĩa Lộ huy động 160 tấn gạo, 16 tấn thịt... đáp ứng nhu cầu tác chiến, không phải chuyển từ xa lên.

Nhằm phá hoại hậu phương Chiến dịch của ta, ngày 29-10, địch cho 5 binh đoàn cơ động tiến công lên Phú Thọ, Yên Bái. Không quân địch đánh phá ác liệt cắt đường vận tải từ Việt Bắc sang Tây Bắc nên bị tắc 6 ngày tại Đèo Giàng; 10 ngày ở đèo Khế. Trung đoàn 36/Đại đoàn 308 được lệnh về Phú Thọ cùng Trung đoàn 246/Liên khu Việt Bắc và Trung đoàn 176/Đại đoàn 316 đánh địch, bảo vệ hậu phương. Tổng cục tiền phương giao nhiệm vụ cho các cơ sở hậu cần ở Phú Thọ, Yên Bái gấp rút sơ tán kho tàng, vừa phục vụ bộ đội chiến đấu ngăn chặn địch, vừa tiếp tục chuẩn bị cho đợt 2. Bị chặn đánh quyết liệt, địch phải rút lui.

Đợt 2 (từ ngày 7 đến 22-11-1952): Bộ đội vượt sông Đà, tiến công hệ thống phòng ngự của địch trên cao nguyên Mộc Châu, kết hợp vu hồi chiến dịch từ Quỳnh Nhai giải phóng Thuận Châu, Tuần Giáo, Điện Biên Phủ, buộc địch ở thị xã Sơn La rút chạy về Nà Sản xây dựng tập đoàn cứ điểm để ngăn chặn ta tiến công. Ban cán sự Đường 41 tổ chức dân công gánh gạo, đạn bám sát bộ đội, bảo đảm cho các đơn vị tiến công và truy kích địch trên Đường 41; gấp rút sửa đường từ Xồm Lồm lên Mộc Châu, Cò Nòi. Việc vận chuyển được thực hiện theo cung, chặng và cuốn chiếu.

Thời gian đầu, tập trung lực lượng trên tuyến Suối Rút - Xồm Lồm (64km), tiếp đó là cung Xồm Lồm - Cò Nòi (87km). Đã chuyển được 528 tấn gạo, bảo đảm cho phát triển tiến công và dự trữ một phần cho đợt sau. Trên hướng Đường 13, ta tập trung chuyển gạo, đạn, từ Yên Bái sang bảo đảm cho các đơn vị vượt sông đánh địch ở hữu ngạn sông Đà. Ta mở tiếp Đường 13 từ Ba Khe vượt các đèo: Lũng Lô, Bản Ban, Nhọt, Chẹn đến Tạ Khoa, Cò Nòi; lực lượng dân công vận chuyển là chính, kết hợp với ô tô vận chuyển ở một số đoạn. Ngoài 25 tấn gạo đưa sang hướng Đường 41, hậu cần đã chuẩn bị 140 tấn cho các đơn vị tiếp tục ở lại Tây Bắc hoạt động sau Chiến dịch và chuẩn bị 313 tấn bảo đảm cho lui quân.

Đợt 3 (từ ngày 30-11 đến 10-12-1952), ta tiến công địch ở Nà Sản không thành công, TB nhiều; ngày 10-12, ta chủ động kết thúc Chiến dịch Tây Bắc, chỉ để lại 2 trung đoàn kìm chân địch, củng cố vùng giải phóng.

Những kinh nghiệm quý trên đã được nghiên cứu vận dụng hiệu quả trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ trước đây và còn nguyên giá trị trong quá trình xây dựng, hoàn thiện thế trận, tiềm lực hậu cần nhất là hậu cần khu vực phòng thủ các cấp, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Đại tá, ThS TRẦN ĐÌNH QUANG, nguyên cán bộ Bộ Tham mưu Hậu cần