Viện Thuốc phóng Thuốc nổ (Tổng cục Công nghiệp quốc phòng) có chức năng, nhiệm vụ nghiên cứu, thiết kế, thử nghiệm, chuyển giao công nghệ và sản xuất sản phẩm vật liệu nổ, hóa chất phục vụ cho quốc phòng và kinh tế; phân tích, đo đạc, kiểm định các loại vật liệu cháy, nổ trong và ngoài
Quân đội. Đa số cán bộ, nhân viên (CBNV) nghiên cứu của Viện có trình độ chuyên môn cao, được đào tạo ở nước ngoài hoặc tại các học viện, trường hàng đầu trong và ngoài Quân đội. Trong điều kiện môi trường làm việc, mức thu nhập, chế độ đãi ngộ cho lực lượng này còn gặp khó khăn nhất định; số CBNV, người lao động (NLĐ) trực tiếp làm nhiệm vụ chế thử, thử nghiệm, sản xuất tại Xí nghiệp Vật liệu nổ (Cơ sở 2 tại Hòa Bình) chiếm 50% tổng quân số, điều kiện làm việc, nơi ăn, ở, sinh hoạt của cơ sở 2 mới sản xuất, thử nghiệm còn nhiều khó khăn.
    |
 |
Nhà điều hành của Viện luôn khang trang, sạch, đẹp. Ảnh: Lương Thảo. |
Thực hiện chỉ đạo, hướng dẫn của Bộ Quốc phòng (BQP), Tổng cục Công nghiệp quốc phòng và cơ quan chức năng về việc triển khai Nghị định số 115/2005/NĐ-CP nay là Nghị định số 54/2016/NĐ-CP ngày 14/6/2016 của Chính phủ về quy định cơ chế tự chủ của tổ chức khoa học và công nghệ công lập, năm 2013, Viện xây dựng đề án, đề xuất với Tổng cục Công nghiệp quốc phòng chuyển một phần hoạt động của Viện theo hướng tự chủ về kinh tế nhằm mục đích chủ động hơn trong việc nâng cao tiềm lực nghiên cứu khoa học công nghệ và đẩy nhanh quá trình nghiên cứu ứng dụng, đáp ứng nhu cầu sản xuất quốc phòng và kinh tế; cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao đời sống cho CBNV, NLĐ. Sau khi Bộ trưởng BQP phê duyệt Đề án, đầu năm 2014, Viện chuyển sang hoạt động theo cơ chế tự chủ. Đây là sự thay đổi mang tính đột phá tạo ra cơ hội mới để phát triển của Viện. Tuy nhiên, thời gian đầu triển khai thực hiện, Viện gặp nhiều khó khăn về thủ tục pháp lý, quy chế hoạt động do chưa được xây dựng đồng bộ và chưa có mô hình trong Quân đội để học tập, vận dụng. Cơ sở hạ tầng, vật chất, trang thiết bị phục vụ nghiên cứu, bảo đảm đời sống CBNV, NLĐ còn thiếu thốn. Mặt khác, việc chuyển một phần hoạt động của Viện từ dự toán sang hạch toán có ảnh hưởng nhất định đến tư tưởng của một số CBNV. Trong khi đó, sản phẩm nghiên cứu của Viện mang tính đặc thù quân sự cao, yêu cầu quản lý nghiêm ngặt, CBNV, NLĐ trực tiếp dễ bị mắc bệnh nghề nghiệp.
Để từng bước tháo gỡ khó khăn, Đảng ủy, chỉ huy Viện nhanh chóng kiện toàn tổ chức biên chế, điều chỉnh, hoàn thiện, bổ sung, ban hành các quy chế, quy định hoạt động theo mô hình mới. Động viên đội ngũ cán bộ, kỹ sư, NLĐ và phát huy mọi nguồn lực đầu tư xây dựng, mua sắm, trang bị cơ sở vật chất phục vụ nghiên cứu, thử nghiệm, sản xuất, nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ, tạo nguồn kinh tế ổn định, góp phần cải thiện đời sống. Sau 1 năm đi vào hoạt động theo cơ chế mới, mặc dù còn nhiều bỡ ngỡ, lúng túng nhưng tổng doanh thu toàn Viện đã tăng 106% so với các năm trước. Sau khi trừ các loại chi phí, nộp ngân sách quốc phòng, ngân sách Nhà nước, lợi nhuận của Viện so với năm trước tăng 12% để chi cho các hoạt động ngoài bao cấp. Các năm tiếp theo, Viện từng bước tự chủ được 30 - 40%. Từ năm 2017 đến nay, Viện đã thực hiện hạch toán tự chủ bảo đảm thu nhập cho 50% tổng quân số CBNV và 100% công nhân; đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ nghiên cứu, sản xuất quốc phòng và kinh tế.
Nhằm không ngừng nâng cao chất lượng đời sống CBNV, NLĐ giúp họ yên tâm công tác, phát huy khả năng phục vụ nhiệm vụ, lãnh đạo, chỉ huy Viện chủ động tìm mọi biện pháp tạo việc làm, thu nhập ổn định cho các đối tượng, nhất là CBNV hưởng chế độ hạch toán, lao động hợp đồng. Đảm bảo thu nhập của đối tượng CBNV cao hơn lương cấp bậc, chức vụ đang giữ để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao.
    |
 |
Nhà ăn cơ sở 1 được tổ chức theo hình thức tự chọn. Ảnh: CTV. |
Nhờ có nguồn thu từ kinh phí thực hiện đề tài và bán sản phẩm, Viện có điều kiện đầu tư cho nghiên cứu, chế thử và sản xuất, từng bước cơ khí hóa, tự động hóa dây chuyền sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động, cải thiện môi trường làm việc cho CBNV, NLĐ và củng cố, nâng cấp, mua sắm mới trang bị nhà ăn, nhà bếp. Nổi bật là, năm 2017, Viện đã đầu tư trên 200 triệu đồng lắp đặt hệ thống điều hòa, dụng cụ nấu, dụng cụ chia, thiết bị ủ nóng thức ăn... để thực hiện bếp ăn tự chọn tại nhà ăn cơ sở 1 (Đức Giang, Long Biên, Hà Nội). Đồng thời nâng cấp nhà ăn, nhà bếp, trang bị đồng bộ dụng cụ cấp dưỡng cho bếp ăn cơ sở 2, tổ chức chia ăn theo định suất, cải tiến chế biến món ăn nâng cao chất lượng nuôi dưỡng CBNV, NLĐ. Cùng với đó, Viện hỗ trợ bữa ăn trưa cho CBNV làm việc tại cơ sở 1 với mức tiền ăn hiện nay là 28.000 đồng/bữa; hỗ trợ 47.000 đồng/người/ngày cho CBNV và 20.000 đồng/người/ngày cho NLĐ làm việc trực tiếp tại cơ sở 2. Ngoài ra, mỗi tháng, Viện tổ chức 2 bữa ăn tăng cường tại bếp với mức 40.000 đồng/bữa/người cho các đối tượng. Dịp lễ, tết, Viện bảo đảm ăn cho lực lượng trực với mức tiền ăn 80.000 đồng/người/bữa chính. Ngoài ra, còn bảo đảm chế độ ăn ca hằng ngày cho CBNV, NLĐ trực tiếp tại cơ sở 2 với mức tiền ăn 10.000 đồng/người và tổ chức ăn bồi dưỡng trong thời điểm nắng nóng kéo dài, cường độ làm việc cao, độc hại. Nhằm nâng cao chất lượng chế biến, nấu ăn, Viện thường xuyên gửi nhân viên nấu ăn luân phiên tham gia các lớp tập huấn kỹ thuật nấu ăn tại các cơ sở đào tạo trong và ngoài quân đội. Tổ chức tạo nguồn thực phẩm tại các cơ sở có uy tín để đảm bảo chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm. Trong điều kiện diện tích đất hạn hẹp, Viện triển khai khu tăng gia sản xuất tập trung tại cơ sở 2 theo hướng sản xuất thực phẩm sạch. Mặc dù mới triển khai, nhưng đến nay đã cung cấp số lượng lớn thực phẩm cung cấp cho bếp ăn cơ sở 2. Hiện nay, Viện đang tiếp tục quy hoạch khu tăng gia theo hướng cơ bản, áp dụng khoa học kỹ thuật mới để tự túc nguồn thực phẩm chất lượng tốt phục vụ cho bếp ăn 2 cơ sở.
Cùng với bảo đảm đời sống, hằng năm, Viện đã đầu tư sửa chữa cải tạo, nâng cấp, làm mới nhà làm việc, sinh hoạt và cảnh quan môi trường cả 2 cơ sở. Bằng sự nỗ lực cố gắng và sự quan tâm của cấp trên, Viện đã nâng cấp, xây mới và đưa vào sử dụng hiệu quả nhiều hạng mục công trình tại 2 cơ sở. Hệ thống bồn hoa, cây cảnh, khu thể thao… được quan tâm đầu tư xây dựng, nâng cấp, chăm sóc tạo cảnh quan môi trường cơ quan, đơn vị luôn xanh, sạch, đẹp. Riêng năm 2019, Viện đã đầu tư cải tạo, mở rộng 700 m2 nhà hội trường, phòng hội thảo, phòng khách, khu thể thao và mua sắm trang thiết bị kèm theo. Đối với nhà ở công vụ tại cơ sở 1 và nhà ở của CBNV, NLĐ cơ sở 2, Viện đầu tư xây dựng cơ bản và sửa chữa, nâng cấp đảm bảo khang trang. Nhà ở công vụ đảm bảo mỗi phòng có diện tích 30 m2, đầy đủ công trình phụ khép kín, doanh cụ, dụng cụ sinh hoạt (giường, tủ quần áo, điều hòa…) để phục vụ CBNV xa gia đình sinh hoạt hằng ngày. Nhà ở của CBNV, NLĐ tại cơ sở 2 được trang bị đầy đủ doanh cụ sinh hoạt. Ngoài ra, Viện còn duy trì hiệu quả khu nhà gia đình phục vụ CBNV có nhu cầu thuê mượn với giá thuê theo quy định giúp họ ổn định cuộc sống.
Trong điều kiện chưa được biên chế trạm xá, lực lượng quân y mỏng, nhất là cơ sở 2 xa cơ sở y tế, Viện đã chủ động phối hợp, hiệp đồng với các cơ sở y tế địa phương, đơn vị bạn trên địa bàn đóng quân làm tốt vệ sinh phòng dịch, sẵn sàng cấp cứu kịp thời khi có tình huống. Triển khai các biện pháp vệ sinh phòng, chống dịch bệnh trong đơn vị; tích cực tuyên truyền cho CBNV tự giữ gìn sức khỏe. Định kỳ hằng năm, Viện chủ động phối hợp với cơ quan Quân y của Tổng cục Công nghiệp quốc phòng, hợp đồng với các bệnh viện có uy tín trong và ngoài Quân đội tổ chức khám sức khỏe cho 100% CBNV và quản lý chặt chẽ bệnh nghề nghiệp. Nhờ đó, những năm qua, Viện không để dịch bệnh xảy ra, quân số khoẻ luôn đạt 99,3% trở lên.
Cùng với những biện pháp trên, Viện còn làm tốt công tác chính sách cho CBNV, NLĐ. Cụ thể: Cuối tuần, Viện duy trì tốt việc đưa đón miễn phí CBNV làm việc trực tiếp tại cơ sở 2 về nghỉ tranh thủ với gia đình trên địa bàn Hà Nội và ngược lại. Hằng năm, tổ chức cho 100% CBNV, NLĐ đi nghỉ mát, an dưỡng theo chế độ… Năm 2015, Viện xây dựng 01 “Nhà tình nghĩa”, trị giá trên 80 triệu đồng; năm 2017 xây dựng 01 “Nhà Đồng đội” trị giá trên 70 triệu đồng cho đối tượng là nhân viên của Viện gặp hoàn cảnh khó khăn. Đồng thời, tích cực tham gia phong trào xây dựng nông thôn mới; năm 2016 Viện đã triển khai Dự án: “Mở rộng đất, làm đường, xây dựng nhà xưởng và hạ tầng kỹ thuật tại Xí nghiệp Vật liệu nổ”; xây dựng hơn 4 km đường bê tông tại xã Mỵ Hòa (huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình) trị giá gần 20 tỉ đồng. Ủng hộ quỹ “Chất độc màu da cam”, “Khuyến học”, “Đền ơn đáp nghĩa”; “Trẻ khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn”; tặng quà, sổ tiết kiệm và khám bệnh, cấp thuốc miễn phí cho các đối tượng chính sách trên địa bàn đóng quân trị giá hàng trăm triệu đồng.
Với những thành tích đạt được trong nghiên cứu khoa học, sản xuất hàng quốc phòng, tham gia phát triển kinh tế và xây dựng đơn vị, năm 2019, nhân dịp kỷ niệm 45 năm ngày truyền thống, Viện được Đảng, Nhà nước tặng Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhì. Từ năm 2014-2019, Viện liên tục được Trưởng ban Chỉ đạo phong trào thi đua “Ngành Hậu cần Quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy” Bộ Quốc phòng tặng Bằng khen. Đây là động lực quan trọng giúp Viện tiếp tục phấn đấu vươn lên, hoàn thành tốt nhiệm vụ trong thời gian tới.¨