Sau năm 1954, đế quốc Mỹ nhảy vào thế chân thực dân Pháp với âm mưu biến Việt Nam, Lào thành thuộc địa kiểu mới nhằm ngăn chặn phong trào cách mạng ở Đông Dương. Cách mạng Việt Nam phải đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược là: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Từ cuối năm 1959, cách mạng Lào chuyển sang giai đoạn kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang nên nhu cầu bảo đảm mọi mặt ngày càng lớn. Để tổ chức chi viện cho chiến trường miền Nam và nước bạn Lào, Bộ Chính trị quyết định thành lập Đoàn 559 và Đoàn 759 có nhiệm vụ chi viện cho các chiến trường dọc theo dãy Trường Sơn và đường biển.
Với tinh thần “Giúp bạn là giúp mình”, theo đề nghị của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Đảng và Nhà nước ta đã thành lập Đoàn chuyên gia quân sự 959 (9/1959), Đoàn 5 (3/1961) và Đoàn 763 (7/1963) để giúp Bạn tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang (LLVT), xây dựng căn cứ kháng chiến... Ta cùng với Bạn đã xây dựng các khu vực hậu cần ở Sầm Nưa, Cánh đồng Chum, Khăm Muộn, Đường 9-Nam Lào... để khai thác tạo nguồn hậu cần tại chỗ; xây dựng hệ thống tổ chức, đào tạo bồi dưỡng cán bộ, nhân viên hậu cần cho nước Bạn và bảo đảm cho liên quân Việt - Lào trong tác chiến.
Thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ đưa hàng ngàn cố vấn quân sự vào miền Nam Việt Nam, xây dựng lực lượng quân nguỵ Sài Gòn với trên 50 vạn tên. Chúng đẩy mạnh đánh phá tuyến Đường 559 nên việc chi viện cho miền Nam gặp rất nhiều khó khăn, trong khi nhu cầu chiến trường ngày càng lớn. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị chủ trương mở rộng tuyến Đường 559 sang phía tây Trường Sơn và được Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào nhất trí. Quân tình nguyện Việt Nam và Bộ đội Pathét Lào đã phối hợp mở Chiến dịch giải phóng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng (01/3/1961) và Chiến dịch Trung Lào (4/1961), giải phóng một vùng rộng lớn từ Đường 12 xuống Đường 9 rộng gần 100 km2 và từ Cha Ky đến phía Đông Pha Lan nối liền vùng giải phóng dọc theo Đường 9 với vùng Thượng Lào, tạo hành lang an toàn cho tuyến đường tây Trường Sơn. Việc bảo đảm hậu cần cho Chiến dịch này do Đoàn 559 đảm nhiệm. Dưới sự chỉ đạo của Đoàn 559, bộ đội tình nguyện, các đoàn chuyên gia, cố vấn Việt Nam đã phối hợp với Quân khu Trung- Hạ Lào và đảng bộ, chính quyền của Bạn khảo sát địa hình để mở đường và tổ chức bảo vệ đường vận tải. Nhân dân Lào ở 17 mường đã tự nguyện sơ tán vào rừng, dành lại đất đai, nương rẫy, làng bản cho tuyến đường đi qua. Ngày 14/6/1961, đường tây Trường Sơn bắt đầu hoạt động. Nhờ vậy, từ năm 1961-1965, Việt Nam đã vận chuyển chi viện cho nước bạn Lào 17.732 tấn hàng, trong đó có 10.136 tấn hàng viện trợ quân sự do hậu cần quân đội Việt Nam trực tiếp vận chuyển.
Trước yêu cầu chuẩn bị cho Tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân (1968), Quân uỷ Trung ương chỉ đạo Đoàn 559 tập trung xây dựng hệ thống cầu đường phía trước để chi viện cho chiến trường miền Nam và Hạ Lào. Các đường cơ giới (128, 129...) được xây dựng mới, đường vượt khẩu 12 và 20 được nâng cấp; các đường bộ gùi thồ và một số cung đường sông được mở mới... hình thành tuyến đường vận chuyển dọc tây Trường Sơn, vươn tới Tà Xẻng ở Nam Lào. Đường ngang nối tuyến Tây và Đông Trường Sơn: Đường B45 ở Trị Thiên, Đường B46 ở Quân khu 5, đường từ Tà Xẻng vào tuyến hành lang mặt trận Tây Nguyên cũng hoàn thành. Hệ thống đường vận tải chiến lược ngày càng được hoàn thiện với 11 binh trạm liên kết chặt chẽ với nhau có khả năng vận chuyển ngày càng lớn. Vì vậy, từ năm 1965-1968, Đoàn 559 đã vận chuyển chi viện cho chiến trường 121.139 tấn vật chất, trong đó chi viện cho miền Nam 27.548 tấn, chiến trường Nam Lào 12.935 tấn và bảo đảm cho các lực lượng hành quân trên các tuyến 15.862 tấn; bảo đảm cho 594.858 lượt người hành quân vào chiến trường, trong đó có 45 đơn vị kỹ thuật với 566 xe cơ giới, 380 khẩu pháo, vận chuyển 35.421 lượt thương bệnh binh. Đồng thời, ta còn giúp Bạn tiếp nhận quá cảnh 20.000 tấn hàng hoá/năm. Đó là cơ sở để Bạn bảo đảm cho nhu cầu dân sinh và LLVT Phathét Lào trong trận tiến công Binh đoàn 17 của địch ở Tha Thơm (1966-1967); trận đánh lực lượng Vàng Pao lấn chiếm nam Xiêng Khoảng (10/1967); bảo đảm cho liên quân Việt-Lào trong chiến dịch Nậm Bạc (1967-1968); bảo đảm cho LLVT Lào phối hợp tác chiến với Cuộc tiến công chiến lược của Việt Nam trong Tết Mậu Thân (1968) và cuộc chiến đấu phòng ngự dài ngày của bộ đội Phathét ở Phu Cút (1968-1969).
Sau Tết Mậu Thân, chiến lược “Chiến tranh cục bộ” bị sụp đổ, đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, phản công ác liệt, đẩy lực lượng ta ra khỏi đồng bằng và đô thị; tập trung đánh phá đường Trường Sơn... Tháng 3/1970, Mỹ lật đổ Chính phủ Xihanuc, mở rộng chiến tranh sang Campuchia. Việt Nam và Campuchia đã chớp thời cơ mở các chiến dịch giải phóng vùng Đông Bắc Campuchia. Lúc này, liên quân Việt-Lào cũng phối hợp mở chiến dịch Hạ Lào giải phóng Atôpơ và Saravan, mở rộng vùng giải phóng Lào từ Bắc đến Hạ Lào. Vùng giải phóng của Việt Nam từ Trị Thiên đến Tây Nguyên đã nối liền với vùng giải phóng của Lào và Campuchia tạo ra vùng hậu phương quan trọng của chiến trường Nam Đông Dương và tạo thuận lợi để phát triển Đường Trường Sơn từ Hạ Lào qua Campuchia vào B2. Vì vậy, từ năm 1969-1972, tuyến Đường 559 đã vận chuyển chi viện cho các chiến trường 277.611 tấn hàng (miền Nam 162.710 tấn, chiến trường Lào 114.901 tấn), bảo đảm cho lực lượng hành quân vào 692.690 người và 256.871 người hành quân ra; thời gian hành quân vào B2 rút ngắn được 10-15 ngày, góp phần quan trọng để các chiến trường vượt qua khó khăn sau tết Mậu Thân và bảo đảm cho các chiến dịch lớn.
Trước thuận lợi mới sau Hiệp định Pa-ri (năm 1973), ta đẩy mạnh việc xây dựng mạng đường vận tải cơ giới Đông và Tây Trường Sơn, chấn chỉnh tổ chức vận tải, tạo chân hàng để chi viện lớn cho các chiến trường chuẩn bị cho thời cơ lớn. Đầu năm 1975, bộ đội Trường Sơn đã làm thêm 5.560km đường bộ, 1.311km đường ống xăng dầu, vận chuyển 823.146 tấn vật chất (bằng 1,6 lần của 13 năm trước đó), đã giao cho các chiến trường 364.524 tấn. Vào giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đường Trường Sơn đã phát triển xuyên qua địa bàn 20 tỉnh (9 tỉnh của Việt Nam, 7 tỉnh của Lào, 4 tỉnh của Campuchia), rộng trên 100.000km2, tạo thành mạng đường giao thông liên hoàn với trên 20.000km (6 trục dọc, 13 trục ngang), gồm: 17.000km đường vận tải cơ giới (trên 800km đường kín); gần 3.000km đường giao liên; mạng đường ống xăng dầu dài 1.399km với 114 trạm bơm đẩy có sức bơm 60-800 m3/ngày và 50 khu kho với trữ lượng 27.000m3 xăng dầu... Cùng với hệ thống kho tàng dự trữ hàng chục vạn tấn vật chất, 4 bệnh viện, 18 bệnh xá tiểu đoàn giao liên, 27 đội điều trị, 90 đội phẫu.
Nhờ đó, trong 16 năm (1959-1975), bộ đội Trường Sơn đã vận chuyển chi viện chiến trường hơn 1 triệu tấn vật chất, vũ khí, trang bị; bảo đảm cho hơn 2 triệu lượt người hành quân; cơ động 10 lượt sư đoàn, hộ tống 90 đơn vị kỹ thuật vào chiến trường; vận chuyển gần 1 triệu lượt thương binh, bệnh binh qua tuyến. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, ta đã bảo đảm cơ động thần tốc 3 quân đoàn, 5 sư đoàn và 2 trung đoàn binh chủng vào chiến dịch; phục vụ hành quân đi các chiến trường 41 vạn người (cả dân sự).
Thấy rõ tầm quan trọng của đường Trường Sơn với cách mạng hai nước, đế quốc Mỹ đã không từ mọi âm mưu, thủ đoạn nhằm ngăn chặn đánh phá, huỷ diệt tuyến chi viện huyết mạch này. Từ năm 1965-1975, Mỹ đã huy động 733.000 lần chiếc máy bay (có 26.539 lần chiếc B52) thực hiện 152.000 trận đánh phá, ném gần 4 triệu tấn bom, đạn và gần 1 triệu galông chất độc hoá học (1 galông = 4,4 lít hàng khô và 3,78 lít hàng lỏng) làm cho hàng vạn người chết, bị thương, hơn 14.500 xe máy bị hỏng, 90.000 tấn hàng bị cháy. Song với tinh thần “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”... bộ đội Trường Sơn đã phối hợp với Bạn, kiên cường bám trụ, tổ chức nhiều trận đánh, tiêu diệt và bắt sống 18.470 tên địch, bắn rơi 2.455 máy bay, góp phần bảo vệ vững chắc và phát triển đường Trường Sơn ngày càng vững mạnh.
Bên cạnh đó, trên cơ sở các khu vực hậu cần được xây dựng từ trước và mới phát triển, từ năm 1965 trở đi, ta và Bạn đã tạo được thế liên hoàn, vững chắc giữa các khu vực hậu cần của quân đội hai nước, đáp ứng kịp thời nhu cầu cho tác chiến của quân đội mỗi nước và liên quân Việt - Lào. Khu vực hậu cần các tỉnh Bắc Lào, nối liền với Việt Nam bằng Đường 42 từ Điện Biên, Tây Trang sang; Khu vực hậu cần Sầm Nưa, là chỗ đứng chân cho nhiều đơn vị chủ lực Việt-Lào, nơi tập trung các cơ quan đầu não của cách mạng Lào, được nối liền với Việt Nam bằng Đường 217 từ Thanh Hóa và Đường 43 từ Mộc Châu, Sơn La sang. Ta và bạn đã xây dựng hệ thống kho khu vực kiên cố dự trữ vật chất các loại, có bệnh viện Navít là bệnh viện tuyến cuối cùng của Lào, có xưởng sửa chữa ô tô ở Nakay, Trường Hậu cần và cơ sở trồng trọt chăn nuôi chế biến ở Namon, Nathen. Khu vực hậu cần Cánh Đồng Chum, nối liền với Việt Nam bằng đường 7a, 7b từ Mường Sén (Tây Nghệ An) sang và đường số 6 từ Sầm Nưa tới. Khu vực hậu cần Khăm Muộn, nối liền với Việt Nam bằng đường số 8, do Quân khu 4 chịu trách nhiệm bảo đảm mọi mặt. Khu vực hậu cần Savannakhẹt và Hạ Lào, nối liền với Việt Nam bằng đường số 9 và bằng các tuyến đường của đoàn vận tải chiến lược 559.
Trong từng khu vực hậu cần, bộ đội ta và bộ đội Phathét Lào đã tích cực tham gia phát triển kinh tế, giúp nhân dân địa phương thành lập các tổ đoàn kết, hỗ trợ về công cụ, giống, áp dụng các kỹ thuật mới; cùng nhân dân tiến hành sản xuất, bảo vệ, thu hoạch mùa màng... Các khu vực hậu cần ở Lào từng bước hình thành và phát triển là cơ sở để kết hợp với hậu cần quân đội Việt Nam, hậu cần quân đội Lào; kết hợp hậu cần quân đội với hậu cần nhân dân, hậu cần từ nơi khác đưa đến với hậu cần tại chỗ, động viên sức người, sức của cho tác chiến trong thời gian ngắn nhất. Từ năm 1965-1975, ta đã chuyển cho LLVT Lào trên 161.000 tấn hàng các loại và cử nhiều chuyên gia hậu cần biệt phái sang giúp Bạn. Việt Nam trở thành hậu phương chiến lược của cách mạng Lào, hậu cần quân đội Việt Nam là tuyến sau của hậu cần các LLVT Lào.
Những bài học kinh nghiệm về bảo đảm hậu cần cho liên minh chiến đấu Việt -Lào, đặc biệt là xây dựng tuyến đường Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Mỹ vẫn còn nguyên giá trị cần được tiếp tục nghiên cứu kế thừa, phát huy để chuẩn bị hậu cần trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Tin rằng, với tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt Việt-Lào, nhân dân và quân đội hai nước sẽ xây dựng thế trận và tiềm lực hậu cần ngày càng vững mạnh, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của mỗi nước và làm tròn nghĩa vụ quốc tế trong thời kỳ mới.
Đại tá, ThS TRẦN ĐÌNH QUANG