Tham gia Bộ Chỉ huy Chiến dịch, về phía Bạn có: Hoàng thân Xu-Va-Nu-Vông, Thủ tướng Chính phủ kháng chiến Lào, đồng chí Cay-XỏnPhôm-Vi-Hản, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và đồng chí Thao Ma, Bí thư Tỉnh ủy Sầm Nưa); phía Việt Nam có các đồng chí: Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tư lệnh Chiến dịch; Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Chính trị; Hoàng Văn Thái, Tham mưu trưởng; Nguyễn Văn Nam, Chủ nhiệm Cung cấp Chiến dịch và đồng chí Nguyễn Khang đặc trách công tác chiến trường Lào. Phương châm của Chiến dịch là: Tập trung ưu thế binh lực, đánh chắc thắng và cơ động nhanh chóng từ xa đến bao vây không cho địch tăng viện và rút lui, tiêu diệt một số cứ điểm quan trọng ở ngoại vi, nhanh chóng đánh vào trung tâm, chia cắt tiêu diệt địch.

Sau khi Đại đoàn 316 tiến đánh Nà Sản để nghi binh lừa địch, ngày 8-1953, bộ đội ta bí mật tiến sang Thượng Lào. Hướng chủ yếu gồm 3 Đại đoàn: 308, 312 (2 trung đoàn) và 316 (1 trung đoàn); được tăng cường một số đơn vị binh chủng và trinh sát theo đường 6 sang Sầm Nưa.

leftcenterrightdel

Đại tướng Võ Nguyên Giáp (thứ ba, từ trái sang), Hoàng thân Xu-pha-nu-vông (thứ ba, từ phải sang) và các cán bộ quân đội Việt Nam - Lào bàn kế hoạch mở Chiến dịch Thượng Lào, năm 1953. Ảnh tư liệu 

Hướng thứ yếu, Đại đoàn 304 được tăng cường một số phân đội hỏa lực, theo đường 7 sang Xiêng Khoảng, chặn đường rút của địch từ Sầm Nưa xuống. Hướng phối hợp, Trung đoàn 148 theo lưu vực sông Nậm Hu tiến xuống uy hiếp Luông - Pha - Băng. Về phía bạn Lào, đồng chí Phu - Mi - Vông - Vi - Chít và Thao - Tu chỉ huy tiểu đoàn quân Pa - Thét Lào phối hợp cùng bộ đội Việt Nam tiêu diệt địch. Đồng chí Nhia-Vu, Bí thư tỉnh ủy Xiêng  Khoảng đi cùng cánh quân phía Nam từ bản Tha Đo tiến vào Xiêng Khoảng.

Bị tiến công mạnh và bất ngờ, đêm 12-4-1953, địch rút chạy khỏi Sầm Nưa. Ta chuyển sang truy kích, đêm 13-4 tiêu diệt bộ phận cuối của địch ở Mường Hàm, bắt bọn cầm đầu ngụy quyền tỉnh Sầm Nưa. Lúc 9 giờ ngày 14-4, ta đánh địch ở Nà Noọng (cách Sầm Nưa 30km), diệt và bắt gần 300 tên. 7 giờ ngày 16-4, ta bắt kịp bộ phận đi đầu của địch ở Hứa Mường (cách Sầm Nưa 60km), tiêu diệt và làm tan rã 4 đại đội và truy kích địch đến sát Cánh đồng Chum.

Hướng đường 7, ta bao vây, tiến công Noọng-Hét, buộc địch rút chạy khỏi Bản Ban, Xiêng- Khoảng. Hướng Phong Sa Lỳ - Mường Sài, ta giải phóng Mường Ngòi, Bản Sẻ, Pắc-Soòng, Nậm- Bạc, uy hiếp Luông-Pha-Băng. Ngày 18-5-1953, ta tiêu diệt cụm cứ điểm Mường Khoa và kết thúc thắng lợi Chiến dịch. Trong Chiến dịch này, liên quân Việt - Lào đã diệt và bắt gần 2.800 tên địch, giải phóng tỉnh Sầm Nưa, một phần Xiêng - Khoảng và tỉnh Phong - Sa-Lỳ, tổng diện tích hơn 4.000 km2 với hơn 30 vạn dân; căn cứ kháng chiến của Lào được mở rộng, nối liền với vùng Tây Bắc Việt Nam; thu 80 tấn vũ khí đạn, hơn 50 tấn lúa gạo, 100 tấn quân trang quân dụng và nhiều thuốc men... Chiến lợi phẩm thu được đã bổ sung kịp thời cho các đơn vị chiến đấu, kịp thời khắc phục khó khăn về vận chuyển và dành lượng dự trữ của Chiến dịch để bảo đảm cho chiến dịch khác. Trong Chiến dịch, hậu cần đã bảo đảm hơn 7.200 tấn vật chất (trong đó có 166 tấn vũ khí đạn dược), cứu chữa 490 thương binh (TB); huy động 62.500 dân công (hơn 2,5 triệu ngày công)... góp phần quan trọng vào thắng lợi chung và để lại một số bài học quý sau:

Một là, nhanh chóng tổ chức bộ máy hậu cần, chủ động chuẩn bị thế trận và tiềm lực hậu cần chiến dịch.

Khó khăn lớn nhất trong Chiến dịch Thượng Lào là bộ đội ta chưa có kinh nghiệm đánh tập đoàn cứ điểm và bảo đảm hậu cần (BĐHC) cho chiến dịch quy mô lớn trên đất Bạn. Tây Bắc Việt Nam và Thượng Lào là địa bàn rừng núi hiểm trở, dân cư thưa, nguồn lực tại chỗ rất hạn chế, chủ yếu phải đưa từ Việt Bắc và Khu 3, 4 lên; gần 100km đường tới Sầm Nưa trên đất bạn, ta chưa nắm được; địch đánh phá ác liệt; thời gian chuẩn bị chưa đầy 3 tháng... Vì vậy, Tổng Quân ủy quyết định chuyển bộ máy hậu cần Chiến dịch (HCCD) Tây Bắc sang chuẩn bị cho Chiến dịch Thượng Lào; nhanh chóng chấn chỉnh tổ chức, bổ sung đủ quân số, trang bị; chỉ đạo các đơn vị chỉnh huấn quân sự, diễn tập...

Tháng 1-1953, Trung ương Đảng và Chính phủ quyết định thành lập Hội đồng Cung cấp (HĐCC) Mặt trận. Trung ương tăng cường 460 cán bộ cho HCCD. Các Liên khu Việt Bắc, 3, 4 và các tỉnh: Phú Thọ, Thanh Hóa, Nghệ An thành lập HĐCC phục vụ Chiến dịch. Tổng cục Cung cấp (TCCC) cử 3 đoàn cán bộ đi trước chuẩn bị chiến trường về hậu cần. Các Đội điều trị 1, 5, 7/Cục Quân y nhanh chóng chuyển TB về hậu phương; chấn chỉnh tổ chức, biên chế; bổ sung thuốc men, trang bị, động viên tư tưởng bộ đội đi Chiến dịch. Quân y Chiến dịch bố trí kho dược ở Vạn Mai và 1 kho lưu động, có khả năng bảo đảm cho 2.000 TB. Đội điều trị các đại đoàn được bổ sung thuốc men, mỗi đội có thể thu dung, điều trị từ 250 - 300 TB.

Mạng lưới thông tin vô tuyến điện từ Việt Bắc tới Tây Bắc và các Liên khu 3, 4 được thiết lập. Giữa các trạm vận tải, đại đội xe ô tô và binh trạm, giữa các kho có điện thoại để thường xuyên liên lạc. Do đó, TCCC và hậu cần mặt trận nắm được tình hình, chỉ huy giải quyết kịp thời các tình huống. Giữa tháng 2-1953, bộ máy hậu cần tiền phương lên đường đi chiến dịch.

Hai là, tập trung huy động nhân, vật lực phục vụ tác chiến

Trên hướng chính, ta huy động nguồn lực hậu cần ở Thanh Hóa là chủ yếu. Tây Bắc tuy gần chiến trường nhưng Nhân dân mới được giải phóng, điều kiện còn gặp nhiều khó khăn nên không huy động. Việc huy động nguồn lực tại chỗ, dựa vào Chính phủ Pa - thét Lào để tiến hành.

Theo phân công, HĐCC Liên khu Việt Bắc huy động lương thực và dân công giao cho HCCD ở Thu Cúc chuẩn bị cho bộ đội hành quân. Liên khu 3 đưa lương thực và dân công được huy động tới Suối Rút; tỉnh Thanh Hóa đưa tới Hồi Xuân. Tổng cục Tiền phương tiếp nhận  tại  các  vị  trí trên và chuyển tới Vạn Mai, Suối Rút, Mộc; gần tới ngày bộ đội hành quân mới chuyển tiếp vào Sốp Bao, Sốp Hào. Ở hướng Xiêng - Khoảng, HĐCC Liên khu 4 và tỉnh Nghệ An huy động nhân lực, vật lực giao cho Đại đoàn 304 ở Mường Sén. Tỉnh Nghệ An đã huy động 26.700 dân công, 463 xe đạp thồ, 188 thuyền và gần 1.200 thủy thủ để vận chuyển vật chất.

Với nỗ lực đó, trong thời gian ngắn, ta đã chuẩn bị vượt chỉ tiêu: 5.010/4.600 tấn gạo; 154/140 tấn muối; 2.340 con trâu, bò, lợn và 52,3 tấn thịt/3.400 con; 121/115 tấn thực phẩm khác và 190 tấn vũ khí đạn (hướng Sầm Nưa 130 tấn, hướng Xiêng - Khoảng 60 tấn). Trên hướng Sầm Nưa, ngành Quân khí lập kho dự trữ ở Mộc Châu, khi bộ đội sắp hành quân thì chuyển 60 tấn vào Sốp Bao. Cùng với số vũ khí đạn còn lại của Chiến dịch Tây Bắc, ngành Quân khí đã kịp thời chuyển từ Việt Bắc, Liên khu 3, 4 lên bổ sung đầy đủ cho các đơn vị.

Ba là, tổ chức tốt công tác vận tải

Vận tải là khâu trung tâm của HCCD. Với khối lượng vận chuyển lớn, cự ly xa, đường sá hẹp, xấu, xe ô tô ít và địch đánh phá ác liệt... nên HCCD sử dụng vận tải thô sơ là chủ yếu, đồng thời tranh thủ xe cơ giới khi có điều kiện. TCCC tổ chức hợp lý lực lượng trên từng tuyến và thống nhất về chỉ huy. Tuyến Thu Cúc - Vạn Yên (80km) sử dụng dân công chuyển gạo bố trí sẵn cho bộ đội hành quân, do binh trạm vận tải chỉ huy chung. Tuyến vận tải thô sơ Hồi Xuân - Vạn Mai - Mường Lát- Sốp Hào (120km), chuyển gạo từ Hồi Xuân lên Vạn Mai, sau đó chuyển vào Sốp Hào, do đồng chí Phó chủ nhiệm TCCC chỉ huy. Tuyến vận tải cơ giới từ Vạn Mai - Suối Rút - Mộc Châu - Sốp Hào (160km) do Cục trưởng Cục Quân nhu chỉ huy.

Để tận dụng con đường từ Vạn Mai vào Sốp Hào và đường sông từ Vạn Mai đến Bản Xước, việc sử dụng lực lượng vận tải được tính toán hợp lý. Trên tuyến vận tải cơ giới Vạn Mai - Suối Rút - Mộc Châu - Sốp Bao (160km) sử dụng  81 xe ô tô để chuyển hàng kiểu “cuốn chiếu”: 10 ngày đầu dùng 30 xe chuyển hàng từ Vạn Mai lên Suối Rút; sau đó dùng 60 xe (có lúc 72 xe) chuyển hàng từ Suối Rút lên Mộc Châu. Cuối tháng 3, dùng 54 xe (sau tăng lên 62 xe) chuyển tiếp từ Mộc Châu vào Sốp Bao.

Nhờ vậy, đã nâng cao hiệu suất phương tiện và năng suất vận chuyển. Ở hướng Xiêng-Khoảng, HĐCC tỉnh Nghệ An dùng thuyền trên sông Lam; dân công và xe đạp thồ chuyển hàng từ Đô Lương lên Cửa Rào. HĐCC Liên khu 4 sử dụng 21.500 dân công và 463 xe đạp thồ chuyển hàng tiếp từ Cửa Rào tới Mường Sén giao cho Đại đoàn 304, sau đó 5.200 dân công chuyển tiếp tới các đơn vị. Trong giai đoạn chuẩn bị, ta đã chuyển 1.892 tấn hàng, trong đó vận tải thô sơ chuyển 812 tấn đưa đến Sốp Hào (sát mặt trận) cung cấp đủ gạo, vũ khí đạn cho bộ đội mà vẫn giữ được bí mật.

Bốn là, chủ động, kiên quyết, linh hoạt, kịp thời xử trí các tình huống

Khi bộ đội ta tiến quân vào Sầm Nưa, việc bảo đảm gạo cho hướng Sốp Bao - Sốp Hào rất khó khăn. Vì vậy, Bộ Chỉ huy Chiến dịch quy định các đơn vị hành quân từ Mộc Châu tới Sầm Nưa (130km), 100% quân số phải mang đủ 3 ngày gạo, tới Sốp Hào sẽ bổ sung 1 ngày. HCCD đã bí mật bố trí các đoàn dân công tới Sốp Hào, chuẩn bị gạo xong thì bộ đội cũng tới, dân công cơ động theo từng đơn vị để bảo đảm. Khi bộ đội truy kích địch trên hướng Sầm Nưa, HĐCC tỉnh Thanh Hóa đã dịch chuyển tuyến từ Hồi Xuân lên Vạn Mai; Tổng cục Tiền phương chuyển vào Mường Liệt (cách Sầm Nưa 10km), việc chỉ huy, chỉ đạo xử trí các tình huống, đặc biệt là bảo đảm gạo chuyển vào Sầm Nưa, Mường Hàm kịp thời.

Mặt khác, TCCC giao cho Ban Cung cấp Trung đoàn 102 phụ trách huy động nhân, vật lực trên đường truy kích để bảo đảm cho tất cả các đơn vị thuộc 5 trung đoàn của 3 đại đoàn đang truy kích địch. Một số cán bộ trung đoàn tham gia cùng với hậu cần và tình nguyện quân làm phiên dịch phối hợp với Bạn vận động nhân dân Lào ở Mường Pơn, Mường Ó, Húa Mường, Bản Ban bán lương thực cho bộ đội và thu chiến lợi phẩm, giải quyết TB. Tốc độ truy kích địch quá nhanh nên hậu cần không theo kịp, một số đơn vị còn máy móc, không cho sử dụng chiến lợi phẩm nên có lúc bộ đội phải nhịn đói. Trên hướng đường số 7, ngày 17-4, sau khi Noọng Hét bị tiêu diệt, ta chuyển sang truy kích địch; tuy vận tải chỉ bảo đảm được 50% kế hoạch, nhưng nhờ huy động tại chỗ và gạo chiến lợi phẩm thu được ở Xiêng Khoảng đã bổ sung kịp thời cho đơn vị.

Chiến dịch Thượng Lào là chiến dịch lớn, dài ngày đầu tiên trên nước Bạn, bộ đội liên tục truy kích địch ở địa bàn rừng núi, đường sá khó khăn, nguồn lực tại chỗ rất hạn chế... Nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ hai nước, ta đã giải quyết thành công nhiều vấn đề hậu cần, đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu tác chiến. Những bài học trên đã được kế thừa, phát triển trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, kháng chiến chống Mỹ. Trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, cần nghiên cứu phát triển các bài học quý báu đó trong xây dựng thế trận và tiềm lực hậu cần, đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống.

ĐẠI TÁ, THS TRẦN ĐÌNH QUANG (NGUYÊN CÁN BỘ BỘ THAM MƯU HẬU CẦN)