Giữa lúc ta đang chuẩn bị cho các hoạt động tác chiến, từ ngày 9 đến 14-11-1951, tướng Xa-lăng, Tư lệnh quân viễn chinh Pháp ở Bắc Đông Dương chỉ huy 21 tiểu đoàn đánh chiếm Hòa Bình nhằm cắt đứt đường liên lạc, tiếp tế giữa Việt Bắc, Tây Bắc với Liên khu 3, 4, thu hút chủ lực ta để tiêu diệt. Địch tổ chức phòng ngự thành 2 khu vực: Sông Đà - Ba Vì (khu Bắc) và Hòa Bình - Đường 6 (khu Nam), trong đó thị xã Hòa Bình được xây dựng thành một tập đoàn cứ điểm và được Phân khu Chợ Bến bảo vệ từ phía Đông.
Ngày 24-11-1951, Trung ương Đảng ra chỉ thị về “Nhiệm vụ phá cuộc tiến công Hòa Bình của địch”. Thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy quyết định mở Chiến dịch Hòa Bình. Đại tướng - Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp được cử làm Tư lệnh Chiến dịch. Lực lượng tham gia gồm 3 đại đoàn bộ binh (308, 312 và 304), Đại đoàn Công binh, Đại đoàn Pháo binh 351 và LLVT địa phương; Đại đoàn 316 và 320 tiến sâu vào vùng địch hậu đồng bằng Bắc Bộ, phối hợp tác chiến với chiến dịch. Đây chiến dịch quy mô lớn; địa bàn rộng, bị chia cắt; giao thông, liên lạc rất khó khăn..., vì vậy, Tổng cục Cung cấp (TCCC) thành lập 02 ban cung cấp tiền phương để bảo đảm cho tác chiến: Ban Cung cấp Mặt trận Bắc Hòa Bình do đồng chí Khu ủy viên Liên khu ủy Việt Bắc làm Trưởng ban; Ban Cung cấp Mặt trận Nam Hòa Bình do đồng chí Phó Chủ nhiệm TCCC làm Trưởng ban. Cơ quan TCCC ở hậu phương trực tiếp bảo đảm cho Đại đoàn 316 hoạt động ở vùng địch hậu trung du.
Khi Tổng Quân ủy mở chiến dịch, ta chỉ chuẩn bị được hơn 4.000 tấn thóc ở Phú Thọ và một số gạo ở Nho Quan (Ninh Bình), nên phải chuyển gấp lương thực từ Thanh Hóa ra chi viện. Do địch chiếm Hòa Bình, đường giao thông bị cắt, ta phải mở lại đường vận tải bộ phía Tây thị xã Hòa Bình qua Tu Lý, Hiền Lương xuống Mãn Đức. Ban Cung cấp Mặt trận phía Bắc tập trung khai thác lương thực, thực phẩm tại khu vực bộ đội tập kết; cán bộ quân nhu và các đoàn thể đến các xã vận động Nhân dân thu hoạch vụ mùa, nộp thuế nông nghiệp, tổ chức xay giã gấp rút, chuyển gạo đến các kho trung tuyến.
Ban Cung cấp Mặt trận phía Nam tập trung chuyển gạo từ Thanh Hóa ra cung cấp cho mặt trận chính diện và lập một số kho trung tuyến ở hữu ngạn sông Đáy, bảo đảm cho mặt trận địch hậu; đồng thời, tổ chức chuyển vũ khí đạn từ Đồn Vàng qua Tu Lý đến Mãn Đức và từ Nho Quan qua Chi Nê, Đầm Đa đến Bãi Khoai, bảo đảm cho các đơn vị. Để chuyển nhanh khối lượng lớn vũ khí, trang bị cho đơn vị, các kho, trạm trung tuyến sử dụng dân công vận chuyển tại một số cung đường, sau đó dùng thuyền chuyển theo đường sông từ Nho Quan đi Chi Nê và Đầm Đa; Cục Vận tải sử dụng 12 xe ô tô vận chuyển 104,6 tấn vũ khí đạn từ Đoan Hùng tới Đồn Vàng, kịp thời cung cấp cho các đơn vị.
Chiến dịch Hòa Bình diễn ra 3 đợt.
Đợt 1 (10 đến 26-12-1951), ta tập trung đột phá tuyến Sông Đà: Đánh địch càn quét ở Nam Ba Vì; tiêu diệt cứ điểm Tu Vũ; đánh nhiều trận phục kích cắt đứt tuyến vận chuyển của địch trên Sông Đà, uy hiếp đường 6, đồng thời đánh mạnh ở vùng địch hậu Bắc Ninh. Địch phải rút bớt lực lượng cơ động từ Hòa Bình về Bắc Ninh để đối phó, nhưng ngay sau đó vội vã đưa quân trở lại cứu nguy cho Hòa Bình.
Ngày 2-12-1951, ở hướng đường 6 và đường 21, Trung đoàn 66/Đại đoàn 304 tiêu diệt đoàn xe vận tải 34 chiếc và 01 đại đội hộ tống, đánh nhiều trận phục kích trên đường số 6, nổi bật là trận Giang Mô (Tây thị xã Hòa Bình), tiêu diệt 200 tên địch, phá hủy 10 chiếc xe (trong đó có xe tăng và xe thiết giáp). Ta hình thành thế trận bao vây thị xã Hòa Bình và uy hiếp địch ở phía bắc đường 6. Lực lượng cung cấp mở đường, đưa 27 ô tô vận tải lên phía trước tiếp cận thị xã Hòa Bình và làm cầu phao vượt sông, bám sát đội hình chiến đấu phục vụ bộ đội.
Đợt 2 (27 đến 31-12-1951), ta vây đánh cụm cứ điểm thị xã Hòa Bình (khoảng 8 tiểu đoàn địch) và đường 6 với nhiều trận đánh nên tỷ lệ thương vong cao. Việc cấp cứu và chuyển thương binh, tử sĩ về phía sau có trận còn bỏ sót; Đảng ủy và Bộ Chỉ huy Mặt trận nghiêm khắc kiểm điểm, rút kinh nghiệm và quyết định giao cho chính trị viên phó (đại đội, tiểu đoàn) và phó chính ủy trung đoàn trực tiếp phụ trách công tác thương binh, tử sĩ. Các đơn vị tổ chức cứu chữa, điều trị thương binh rất linh hoạt: Tiểu đoàn tổ chức đội phẫu thuật nhỏ; đội phẫu thuật trung đoàn được tăng cường, bảo đảm cứu chữa và lưu giữ thương binh trong thời gian dài. Việc chăm sóc, bảo vệ và chuyển thương binh ra vùng tự do được Nhân dân các địa phương hết lòng giúp đỡ.
Để bảo đảm ăn uống cho bộ đội trong điều kiện chiến đấu liên tục, dài ngày, đồng chí Hoàng Cầm (Tổ trưởng cấp dưỡng, Đội điều trị Đại đoàn 308) đã sáng tạo ra kiểu bếp nấu (bếp Hoàng Cầm) che được ánh lửa, khói lan tỏa rộng và thấp, máy bay địch không phát hiện được; nhờ đó, bộ đội được ăn nóng, uống sôi, sức khỏe nâng lên rõ rệt... Với sáng kiến này, đồng chí Hoàng Cầm được tặng Huân chương Chiến công và danh hiệu Chiến sĩ thi đua toàn quốc (5-1952).
Ở mặt trận phối hợp: Đại đoàn 320 hoạt động mạnh ở Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình; Đại đoàn 316 phối hợp với LLVT địa phương hoạt động ở Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hưng Yên, biến hậu phương địch thành hậu phương của ta; TCCC chuẩn bị cơ sở, tổ chức tuyến vận tải vào vùng địch hậu, tiếp tế đạn cho bộ đội địa phương và dân quân du kích, lập một số kho nhỏ dự trữ mìn, lựu đạn bổ sung cho các đơn vị.
Nhân dân vùng địch hậu, dù bị địch càn quét, phá hoại, đời sống rất khó khăn, nhưng vẫn hăng hái đi dân công, đóng thuế nông nghiệp phục vụ Chiến dịch. Ở Phát Diệm, Ninh Bình, để giữ bí mật, địa phương gửi thóc nhờ dân cất giữ, khi bộ đội chuẩn bị nổ súng, cán bộ đến từng gia đình vận động xay, giã, trong một đêm đã đủ gạo bảo đảm cho bộ đội.
Đợt 3 (7-1-1952/25-2-1952), ta chuyển hướng tiến công chủ yếu sang đường 6 và bao vây thị xã Hòa Bình: Tập kích tiêu diệt trận địa pháo và 4 vị trí địch ở trung tâm và ngoại vi thị xã; đánh cắt giao thông, làm tê liệt vận chuyển của địch trên đường 6. Bị bao vây, cô lập ở Hòa Bình, lại bị đánh mạnh ở trung du, đồng bằng, sáng ngày 23-2-1952, quân Pháp rút khỏi Hòa Bình.
Chiến dịch Hòa Bình kết thúc, ta loại khỏi chiến đấu hơn 6.000 tên địch; bắn rơi 9 máy bay, bắn chìm 17 tàu, xuồng, phá hủy 12 khẩu pháo, hàng trăm xe vận tải; thu 150 tấn vũ khí đạn dược; giải phóng khu vực Hòa Bình - sông Đà, rộng trên 1.000 km2 với 20.000 dân; giữ vững đường giao thông liên lạc giữa Việt Bắc với Liên khu 3 và 4, góp phần đẩy mạnh chiến tranh du kích ở vùng địch hậu. Ở mặt trận địch hậu trung du và Liên khu 3, ta giải phóng khu vực rộng 4.000 km2 với 1,9 triệu dân; tiêu diệt 15.237 tên địch, thu 6.126 súng và 10 khẩu pháo các loại,...
Trong chiến dịch này, cơ quan Cung cấp Chiến dịch đã vượt mọi khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo đảm 6.275 tấn gạo, 200 tấn thực phẩm, 280 tấn đạn, cứu chữa 6.390 thương binh; huy động 330.400 lượt dân công (11.914.000 ngày công), 200 xe trâu bò, 93 thuyền mảng... góp phần quan trọng vào thắng lợi của Chiến dịch.
Những kinh nghiệm công tác bảo đảm hậu cần Chiến dịch Hoà Bình đã được kế thừa và phát triển trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ngày nay, những kinh nghiệm đó cần được nghiên cứu và phát triển trong xây dựng thế trận và tiềm lực hậu cần của nền quốc phòng toàn dân và chiến tranh Nhân dân, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Đại tá, ThS TRẦN ĐÌNH QUANG, Nguyên cán bộ Bộ Tham mưu/Tổng cục Hậu cần