Hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ và công tác môi trường được tổ chức triển khai ngày càng đồng bộ, thống nhất, toàn diện, có bước phát triển mới, nhận thức và trách nhiệm của cấp ủy, chỉ huy các cấp đối với công tác KH, CN & MT trong lĩnh vực HCQS có chuyển biến tích cực; vai trò, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và cá nhân làm công tác chuyên môn được nâng lên; được đông đảo cán bộ, nhân viên, chiến sĩ ngành Hậu cần và các ngành, lĩnh vực khác cùng tham gia; hoạt động KH, CN & MT của Tổng cục Hậu cần và hậu cần toàn quân được duy trì có nền nếp, chấp hành tốt pháp luật, thiết thực, góp phần quan trọng vào hoàn thành nhiệm vụ chính trị của đơn vị, đáp ứng tốt yêu cầu công tác hậu cần cho sẵn sàng chiến đấu, xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, tham gia phát triển đất nước.
Năng lực toàn diện về công tác KH, CN & MT của ngành Hậu cần được nâng lên; cơ quan, tổ chức chuyên ngành được kiện toàn, củng cố; đội ngũ cán bộ làm công tác khoa học được quan tâm xây dựng, rèn luyện, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu hoạt động; thu hút được cán bộ trẻ, có trình độ tham gia; trang thiết bị, phương tiện, cơ sở phục vụ hoạt động khoa học và công nghệ được đầu tư, nâng cấp. Công tác quản lý khoa học HCQS của cơ quan chức năng có nhiều đổi mới, phát huy tốt chức năng tham mưu, giúp cấp có thẩm quyền quản lý công tác KH, CN & MT trong lĩnh vực HCQS.
|
|
Đồng chí Thượng tướng Lê Huy Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng chứng kiến ký kết chương trình phối hợp thực hiện chuyển đổi số công tác Hậu cần Quân đội giữa TCHC và Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội. Ảnh: Đình Thảo. |
Kết quả hoạt động khoa học HCQS đã góp phần nâng cao chất lượng công tác hậu cần, xây dựng ngành Hậu cần Quân đội theo chủ trương, định hướng chung của QUTW, BQP. Đồng thời là cơ sở quan trọng để lãnh đạo, chỉ huy các cấp tham mưu với trên hoạch định chủ trương, chính sách, giải pháp xây dựng, chuẩn bị hậu cần bảo đảm cho chiến tranh bảo vệ Tổ quốc; góp phần phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam, từng bước hoàn thiện lý luận công tác hậu cần; nâng cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động bảo đảm hậu cần cho các nhiệm vụ.
Tuy nhiên, hoạt động khoa học trong lĩnh vực HCQS cũng còn một số hạn chế, bất cập, như: Hoạt động khoa học và công nghệ có mặt chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn; một số công trình, đề tài, nhiệm vụ khoa học, công nghệ, hiệu quả ứng dụng chưa cao; cơ chế quản lý và triển khai còn bất cập, thiếu đồng bộ; phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động khoa học, công nghệ có lúc, có nội dung chưa chặt chẽ.
Thời gian tới, dự báo tình hình thế giới và khu vực sẽ tiếp tục có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo, đặc biệt là các nguy cơ an ninh phi truyền thống; cạnh tranh chiến lược, xung đột cục bộ, tranh chấp lãnh thổ, mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc, tôn giáo… tiếp tục diễn biến phức tạp, gay gắt hơn; cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, nhất là chủ quyền biển, đảo của Đảng, Nhà nước, Nhân dân và Quân đội ta còn nhiều khó khăn, phức tạp...
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI đã xác định xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; đến năm 2025, cơ bản xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu từ năm 2030 xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Mặt khác, sự thay đổi vượt bậc trong thời đại công nghệ số của cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư và tầm ảnh hưởng sâu rộng của khoa học và công nghệ đến mọi mặt đời sống xã hội. Vì vậy, để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ, công tác khoa học HCQS trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện tốt các giải pháp chủ yếu sau:
Một là, tiếp tục quán triệt sâu sắc và cụ thể hóa chủ trương, quan điểm của Đảng, QUTW, BQP trong công tác khoa học HCQS; làm tốt tổ chức triển khai thực hiện
Đây là vấn đề có tính nguyên tắc đảm bảo cho công tác KH, CN & MT trong lĩnh vực HCQS phát triển đúng hướng, phù hợp với tình hình thực tiễn. Tổ chức tốt việc quán triệt các nghị quyết, kết luận, chỉ thị, hướng dẫn liên quan đến công tác KH, CN & MT; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy các cấp trong tổ chức quán triệt, giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức về ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng của công tác KH, CN & MT đối với sự nghiệp xây dựng và BVTQ cho mọi cán bộ, đảng viên, nhân viên, chiến sĩ; vận dụng phù hợp hình thức, phương pháp để huy động sự tham gia của các cơ quan, tổ chức và đông đảo cán bộ, nhân viên, chiến sĩ, người lao động trong ngành Hậu cần Quân đội và các ngành, lĩnh vực khác; phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên môn; gắn thực hiện nội dung công tác KH, CN & MT vào nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị; thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết đánh giá thực hiện, nhân rộng điển hình, giải quyết kịp thời khó khăn, vướng mắc, nảy sinh trong quá trình thực hiện.
Hai là, tập trung nghiên cứu phát triển khoa học HCQS đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quân sự, quốc phòng trong tình hình mới
Đẩy mạnh nghiên cứu dự báo, nắm chắc xu thế tình hình của thế giới, khu vực và trong nước; các nguy cơ, thách thức, tình huống tranh chấp, xung đột có thể xảy ra... âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động; các hình thái, phương thức tiến hành chiến tranh xâm lược đối với Việt Nam... tác động đến công tác hậu cần để xác định mục tiêu, nội dung nghiên cứu và đề xuất giải pháp phù hợp. Nghiên cứu nâng cao chất lượng các mặt công tác, chú trọng nghiên cứu, đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng các mặt bảo đảm để bảo đảm tốt đời sống, chăm sóc sức khỏe bộ đội, giảm sức lao động của người phục vụ, nâng cao năng suất trong các hoạt động bảo đảm, sản xuất hậu cần, giảm tác động tiêu cực đến môi trường; nâng cấp, cải tiến trang bị, phương tiện, vật chất hậu cần đồng bộ với vũ khí trang bị chiến đấu, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ, tính chất, đặc điểm hoạt động của các lực lượng, đáp ứng tốt yêu cầu hậu cần cho sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện, xây dựng, phát triển Quân đội. Nâng cao chất lượng công tác quản lý, xây dựng ngành trong điều kiện khoa học, công nghệ và Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư phát triển trong mọi lĩnh vực.
Nghiên cứu bổ sung, phát triển lý luận bảo đảm hậu cần cho các hình thái chiến tranh, loại hình, hình thức tác chiến, ở các quy mô: Chiến lược, chiến dịch, chiến thuật, tác chiến phòng thủ, tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng theo tổ chức biên chế mới; lý luận bảo đảm hậu cần cho ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống, phi truyền thống, các hoạt động đấu tranh bảo vệ vững chắc biên giới, chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc và trên không gian mạng. Nghiên cứu bổ sung lý luận bảo đảm hậu cần cho các loại hình đơn vị mới, các lực lượng được ưu tiên đầu tư tiến thẳng lên hiện đại…
Nghiên cứu đề xuất hoàn thiện cơ chế, chính sách về huy động hậu cần, phương thức bảo đảm hậu cần trong chiến tranh; về quy hoạch, xây dựng thế trận hậu cần toàn dân, trong đó có quy hoạch, kế hoạch, xây dựng hệ thống căn cứ hậu phương, căn cứ hậu cần, cơ sở bảo đảm gắn với quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội trên từng chiến trường, hướng, địa bàn chiến lược, tạo thế trận hậu cần vững chắc, sẵn sàng triển khai đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ BVTQ; xây dựng lực lượng hậu cần; phát triển công nghiệp quốc phòng trong lĩnh vực hậu cần, vừa đáp ứng yêu cầu bảo đảm, vừa góp phần phát triển kinh tế, phục vụ dân sinh.
Xây dựng kế hoạch, triển khai nghiên cứu bổ sung, chỉnh sửa hệ thống điều lệ Ngành, điều lệ các Chuyên ngành thuộc hậu cần theo tổ chức, biên chế mới, thống nhất với hệ thống Điều lệnh tác chiến QĐND Việt Nam; tổ chức biên soạn mới hoặc bổ sung, chỉnh sửa hệ thống giáo trình huấn luyện, tài liệu dạy học phù hợp với sáp nhập hậu cần - kỹ thuật, thống nhất, đồng bộ với hệ thống giáo trình, tài liệu quân sự và điều chỉnh tổ chức, biên chế Quân đội.
Ba là, tăng cường năng lực để tiếp nhận thành tựu cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách hành chính; phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số trong Bộ Quốc phòng đối với công tác hậu cần, thực hiện chuyển đổi số công tác hậu cần, góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng ngành Hậu cần Quân đội phù hợp với tổ chức, biên chế mới, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội hiện đại. Trong đó, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, vai trò, trách nhiệm của cấp ủy Đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị đối với việc triển khai, thực hiện nhiệm vụ chuyển đổi số công tác hậu cần; nghiên cứu rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung, cụ thể hóa các quy định, hướng dẫn của bộ, ngành Trung ương, cơ quan chức năng Bộ Quốc phòng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, tính chất, yêu cầu của ngành Hậu cần; xây dựng, ban hành các quy chế, quy định phù hợp với từng cơ quan, tổ chức để hỗ trợ, thúc đẩy phát triển chuyển đổi số; khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp có đủ điều kiện, năng lực tham gia đầu tư, phát triển hạ tầng và các dịch vụ phục vụ chuyển đổi số công tác hậu cần.
Tăng cường phối hợp với các cơ quan, tổ chức khoa học trong và ngoài Quân đội về nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ thuộc lĩnh vực HCQS. Phối hợp nghiên cứu, giải quyết những vấn đề khoa học, công nghệ để cải tiến, nâng cấp trang bị, phương tiện, vật chất hậu cần phù hợp, đồng bộ với vũ khí, trang bị chiến đấu, nghệ thuật tác chiến, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, ưu tiên các lực lượng được đầu tư tiến thẳng lên hiện đại, các đơn vị làm nhiệm vụ đặc thù; phối hợp ứng dụng các sản phẩm, chuyển giao công nghệ liên quan đến công tác hậu cần quân đội đã nghiên cứu thành công, phù hợp, vào thực tế để bảo đảm hậu cần cho các đơn vị; phối hợp nghiên cứu, đề xuất và triển khai thực hiện các nhiệm vụ khoa học công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu xây dựng ngành Hậu cần Quân đội trong tình hình mới và đòi hỏi của cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư.
Nghiên cứu xu hướng phát triển mới về bảo đảm hậu cần của các nước trên thế giới có thể áp dụng vào điều kiện nước ta. Triển khai thực hiện tốt các hoạt động đối ngoại quốc phòng trong lĩnh vực hậu cần để học tập, trao đổi kinh nghiệm chuyên môn, tiếp nhận, chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực HCQS với quân đội các nước.
Bốn là, thực hiện tốt bảo vệ môi trường trong công tác HCQS
Kết hợp chặt chẽ các cơ quan trong thẩm định, đánh giá tác động đến môi trường đối với các dự án đầu tư hậu cần; tổ chức thực hiện tốt các giải pháp bảo vệ, giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường trong các hoạt động hậu cần, sản xuất quốc phòng trong lĩnh vực hậu cần. Tiếp tục nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung phù hợp các văn bản pháp quy về bảo vệ môi trường có liên quan đến công tác hậu cần quân đội; ban hành theo phạm vi, thẩm quyền các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn về công tác bảo vệ môi trường trong lĩnh vực HCQS. Tăng cường giáo dục, phổ biến pháp luật bảo vệ môi trường, làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao ý thức, trách nhiệm về bảo vệ môi trường cho mọi tổ chức, cá nhân hoạt động hậu cần, nhất là cán bộ, nhân viên hậu cần. Đưa nội dung công tác bảo vệ môi trường tại cơ quan, đơn vị trong toàn quân thành các chỉ tiêu trong phong trào thi đua Ngành, các Chuyên ngành thuộc hậu cần và các phong trào thi đua, cuộc vận động khác; chỉ đạo kiểm tra, xử lý kịp thời các trường hợp gây ô nhiễm môi trường do hoạt động bảo đảm, sản xuất hậu cần. Cơ quan, đơn vị hậu cần toàn quân chủ động tham gia có trách nhiệm, hưởng ứng tích cực các hoạt động bảo vệ môi trường do các tổ chức môi trường trong và ngoài Quân đội phát động.
Năm là, củng cố tổ chức, công tác quản lý, thu hút nguồn nhân lực, đầu tư cho công tác KH, CN & MT
Nghiên cứu đề xuất kiện toàn, thống nhất tổ chức, biên chế các cơ quan, tổ chức thực hiện công tác KH, CN & MT ngành Hậu cần Quân đội; cơ chế, chính sách đối với đội ngũ cán bộ làm công tác KH, CN & MT, nhất là đội ngũ chuyên gia đầu ngành, thu hút cán bộ trẻ có năng lực nghiên cứu, đề xuất đổi mới cơ chế quản lý và triển khai nhiệm vụ khoa học, công nghệ, phù hợp đặc thù quân sự và công tác hậu cần, có cơ chế đặc thù trong triển khai các chương trình, dự án trọng điểm. Phát huy đầy đủ chức năng tư vấn của các hội đồng khoa học, triệt để khắc phục những hạn chế trong thẩm định, xét duyệt giao đề tài, nhiệm vụ khoa học; tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn nâng cao chất lượng các sản phẩm khoa học. Đầu tư xây dựng tiềm lực KH, CN & MT về lĩnh vực hậu cần quân sự; đổi mới công nghệ, nâng cấp hệ thống thiết bị, phương tiện phục vụ công tác nghiên cứu, ứng dụng, thử nghiệm; đa dạng hóa các nguồn vốn, nhất là từ các tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài Ngành để đầu tư cho công tác KH, CN & MT trong lĩnh vực HCQS.
Đầu tư phát triển khoa học, công nghệ, bảo vệ môi trường nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng công tác hậu cần, đáp ứng tốt nhất yêu cầu, nhiệm vụ của Quân đội trong tình hình mới là vấn đề khách quan. Để đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ, công tác KH, CN & MT trong lĩnh vực HCQS đòi hỏi các cấp, các ngành phải có nhận thức đúng, phát huy tốt vai trò, trách nhiệm, hoàn thành tốt mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp công tác KH, CN & MT, đóng góp vào hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Ngành, bảo đảm tốt hậu cần cho toàn quân thực hiện nhiệm vụ, góp phần xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, phát triển bền vững đất nước.
Đại tá ĐẶNG ĐÌNH TOẢN, Phó Tham mưu trưởng TCHC