Năm 937, nha tướng Kiều Công Tiễn sát hại Dương Đình Nghệ để cướp ngôi Tiết độ sứ (người đứng đầu đất nước vừa giành được quyền độc lập tự chủ), gây nên sự căm phẫn trong các vị hào trưởng và nhân dân. Thứ sử Ngô Quyền, vị tướng tài và là con rể của Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ được giao cai quản Châu Ái (Thanh Hóa ngày nay) đã tập hợp lực lượng hào kiệt tiến quân ra Bắc để hạ thành Đại La (nay là Hà Nội) và tiêu diệt Kiều Công Tiễn trừ họa. Quá hoảng sợ, Kiều Công Tiễn vội vã cầu cứu nhà Nam Hán.
|
|
Chiến thắng Bạch Đằng năm 938. Ảnh: baotanglichsu.vn
|
Nhân cơ hội đó, năm 938, vua Nam Hán là Lưu Cung đã phong con trai là Lưu Hoằng Tháo (có tài liệu viết Lưu Hoằng Thao) thống lĩnh thủy quân vượt biển sang xâm lược nước ta. Đất nước lâm nguy, Ngô Quyền một mặt tổ chức tiêu diệt Kiều Công Tiễn, trừ mối họa bên trong, mặt khác chỉ huy quân sĩ và Nhân dân khẩn trương chuẩn bị mọi mặt để chống quân Nam Hán xâm lăng.
Tháng 11-938, Ngô Quyền quyết tâm tổ chức trận đánh quyết định nhằm đánh bại quân xâm lược Nam Hán ngay từ đầu. Nắm vững đường tiến quân của tướng địch Hoằng Tháo, Ngô Quyền đề ra kế sách: Đem cọc nhọn, đầu bịt sắt cắm ngầm xuống nơi hiểm yếu lòng sông Bạch Đằng; thuyền giặc từ biển theo thủy triều lên vào trong bãi cọc để ta dễ bề chế ngự.
Ngô Quyền huy động hàng nghìn binh sĩ và nhân dân địa phương nhanh chóng xây dựng trận địa cọc để đón đánh quân xâm lược. Hàng nghìn cây gỗ được vót nhọn, bịt sắt cắm xuống lòng sông Bạch Đằng tại nơi hiểm yếu gần cửa biển dài khoảng 3 dặm (khoảng 1.500m) tạo thành trận địa ngầm lợi hại, khi thủy triều lên, bãi cọc không bị lộ. Đồng thời, ông cho triển khai quân thủy, quân bộ bí mật mai phục, sẵn sàng chờ diệt giặc.
Khi thủy quân Nam Hán vào Vịnh Hạ Long, Ngô Quyền cho quân dùng thuyền nhẹ ra đánh và giả thua, bỏ chạy để dụ đoàn thuyền địch theo ý định. Thủy quân Nam Hán trúng kế, ồ ạt kéo vào cửa sông Bạch Đằng. Lúc ấy, nước thủy triều dâng cao, đoàn thuyền chiến của quân Nam Hán vượt qua trận địa cọc ngầm của ta bố trí sẵn.
Quân ta tổ chức đánh cầm cự với giặc, đợi đến lúc thủy triều rút xuống mạnh, nước chảy xiết, những cọc ngầm có đầu bịt sắt nhấp nhô trên mặt nước chính là lúc toàn bộ chiến thuyền và lực lượng của ta phản kích mãnh liệt. Thủy quân Nam Hán hoảng loạn quay đầu chạy. Ra đến gần cửa biển, thuyền giặc đâm phải bãi cọc nhọn, thuyền vỡ và bị đắm; đội hình rối loạn, quân lính chết hơn một nửa. Thừa thắng, các chiến thuyền nhẹ của ta truy kích, bắt và giết được Hoằng Tháo, toàn bộ quân xâm lược bị tiêu diệt gọn. Vua Nam Hán đóng quân ở Hải Môn đang gấp rút điều quân sang tiếp viện, nghe tin Hoằng Tháo chết trận đành “thương khóc, thu nhặt quân còn sót mà lui”. Thất bại lần thứ hai khiến nhà Nam Hán phải từ bỏ ý định xâm lược nước ta.
Sau trận Bạch Đằng, Ngô Quyền tự mình xưng vương hiệu, thành lập một triều đại, có triều đình, quan chức, chính thức xác lập nền độc lập của Việt Nam - bước ngoặt lịch sử quan trọng. Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 có thể coi là trận chung kết toàn thắng của dân tộc Việt trên con đường đấu tranh chống Bắc thuộc, chống đồng hóa, giành lại độc lập dân tộc. Sử gia Lê Văn Hưu (đời nhà Trần) đã viết: “Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới họp của đất Việt ta mà phá được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, mở nước, xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám sang nữa. Có thể nói là, một cơn giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy!”. Các nhà sử học coi Ngô Quyền là “ông tổ phục hưng” cho nền độc lập, tự chủ dân tộc Việt Nam.
Mặc dù thời gian phải chuẩn bị rất gấp rút (tháng 11-938, Ngô Quyền kéo quân từ Châu Ái ra Bắc và cuối năm ấy thực hành trận đánh), địa bàn tác chiến ở nơi hẻo lánh, nhưng Ngô Quyền đã giải quyết tốt việc bảo đảm hậu cần để tiến hành trận quyết chiến chiến lược Bạch Đằng thắng lợi vang dội, dựa trên các yếu tố sau:
Xây dựng hậu phương vững mạnh
Châu Ái là vùng đất Ngô Quyền đã chăm lo xây dựng kinh tế trong 7 năm (từ năm 931 đến năm 938) khi giữ chức Thứ sử. Người dân Châu Ái chăm chỉ với nghề nông, giữ vững tinh thần bất khuất chống giặc ngoại xâm. Đất Châu Ái giàu có với những sản vật phong phú như: lúa gạo, hoa quả, muối ăn, nhiều loại cây thuốc quý để chữa bệnh, nghề trồng bông lấy sợi có ở nhiều nơi; khoáng sản có sắt ở núi Tuần Thiêm huyện Ngọc Sơn...
Tháng 1-932, Dương Đình Nghệ và bộ tướng của mình là Ngô Quyền đã từng tập hợp hơn 3.000 quân lính, tích trữ vật chất ở Châu Ái rồi từ đó mở cuộc tiến công ra Châu Giao đuổi Lý Tiến, giết tướng giặc Trần Bảo, quét sạch quân Nam Hán, giành lại nền tự chủ cho đất nước. Không có hậu phương được xây dựng từ trước và được chuẩn bị chu đáo, thì không thể nhanh chóng huy động được sức người, sức của và tổ chức vận chuyển (chủ yếu bằng đường thủy) để phục vụ tác chiến ở cửa sông Bạch Đằng.
Nhanh chóng xây dựng đội thủy quân mạnh
Quân xâm lược Nam Hán có thế mạnh là quân đông, chiến thuyền lớn. Nhưng điểm yếu cơ bản là đạo quân xâm lược, phải hành quân đường dài bằng thuyền trên biển, khí hậu, thời tiết thất thường ảnh hưởng sức chiến đấu của quân lính, lạ nước, lạ đường, gặp khó khăn về tiếp tế hậu cần. Ngược lại, phía ta tuy chiến thuyền nhỏ hơn, nhưng được Ngô Quyền chủ động cho bổ sung hơn trước. Chiến thuyền của ta dài và nhẹ (gọi là mông đồng) có sức chở được 25 binh sĩ và 25 tay chèo vừa đủ cho tác chiến, đảm bảo cho thuyền ta cơ động ngược xuôi “nhanh như gió”.
Vì vậy, dù giặc Nam Hán “có lợi ở thuyền”, nhưng Ngô Quyền vẫn chủ trương bổ sung phương tiện, công cụ chiến đấu cho quân thủy, hạ lệnh sửa chữa, đóng mới hàng loạt chiến thuyền, nhanh chóng tạo ra lực lượng thủy quân mạnh. Trên cơ sở đó, Ngô Quyền quyết định lấy thủy quân làm một trong những lực lượng nòng cốt tiêu diệt quân xâm lược Nam Hán trên cửa sông Bạch Đằng.
Tổ chức huy động hậu cần tại chỗ
Sau một chặng đường hành quân trên 200km, đoàn quân của Ngô Quyền vừa hăng hái đánh thù trong (tiêu diệt Kiều Công Tiễn), vừa bắt đầu ngay việc thực hiện kế hoạch tiêu diệt quân địch ở cửa sông Bạch Đằng. Bí mật đưa quân và trang bị đến bố trí sẵn ở vùng cửa sông Bạch Đằng, sau đó huy động tập kết lực lượng, vật chất hậu cần một cách nhanh chóng, kịp thời, nhất là huy động lương thực, thuyền bè, khí giới... Nếu không có sự tổ chức tốt để động viên lực lượng tại chỗ, thì không thể đáp ứng yêu cầu tác chiến.
Đặc biệt là, Nhân dân các địa phương cùng quân sĩ đã nhanh chóng và bí mật chặt gỗ, vót nhọn, bịt sắt, sau đó chở đến vùng cửa sông được chọn làm nơi cắm bãi cọc, xây dựng trận địa cọc ngầm đánh giặc. Đây là một trong những yếu tố quan trọng giành thắng lợi trong trận quyết chiến.
Cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán xâm lược là một cuộc kháng chiến chính nghĩa bảo vệ đất nước, do đó được Nhân dân cả nước hết lòng ủng hộ. Câu chuyện đượm màu sắc thần thoại còn ghi lại trong sách Việt điện u linh “Khi Ngô tiên chúa (Ngô Quyền) lập quốc, quân phương Bắc vào ăn cướp. Tiên chúa lo lắng, đêm nằm mộng thấy một ông già đầu bạc, mũ áo nghiêm trang, đẹp đẽ, quạt lông, gậy trúc, tự xưng họ tên và nói rằng: Tôi đã đem vạn đội thần binh mai phục trước ở chỗ hiểm yếu, Chúa Công mau mau tiến quân chống giặc đi, tức khắc có sức âm trợ, không nên lo ngại. Khi trận đánh xảy ra, đúng là thấy trên không trung có tiếng ngựa, xe và trận ấy quả nhiên thắng lớn”.
Chiến thắng oanh liệt của quân và dân ta trên sông Bạch Đằng cuối năm 938 dưới sự lãnh đạo của người anh hùng dân tộc Ngô Quyền được ghi vào sử sách chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Ông được Nhân dân và lịch sử suy tôn “Vị vua có công tái tạo, vua của các vua”, “Vị tổ trung hưng” của dân tộc Việt Nam .
Đại tá, ThS TRẦN ĐÌNH QUANG, Nguyên cán bộ Bộ Tham mưu Hậu cần