Tháng 12-1944, trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay), với tầm tư duy chiến lược vượt trội và sự tin tưởng tuyệt đối vào sức mạnh vô địch của nhân dân, Người đã căn dặn đồng chí Võ Nguyên Giáp:
“...Nguồn cung cấp sẽ dựa vào nhân dân… dựa chắc vào nhân dân thì kẻ địch không thể nào tiêu diệt được....”.
Sau cách mạng tháng Tám, việc BĐHC cho quân đội vô cùng khó khăn, chủ yếu dựa vào nhân dân. Với lòng yêu nước nồng nàn, nhân dân ta đã hăng hái hưởng ứng các phong trào quyên góp do Đảng và Bác Hồ phát động, như “Tuần lễ vàng”, “Quỹ độc lập”, “Quỹ quốc phòng”... giúp Chính phủ giải quyết những khó khăn trước mắt của quân đội. Sau khi Tổng cục Cung cấp được thành lập (11/7/1950), hệ thống tổ chức ngành Hậu cần Quân đội dần được hoàn chỉnh, song việc BĐHC vẫn dựa vào dân là chủ yếu; kết hợp chặt chẽ hậu cần nhân dân (HCND) với hậu cần quân đội bằng nhiều hình thức phong phú, như quyên góp, ủng hộ, vay trừ vào thuế, phát hành trái phiếu, thu mua, trưng mua, trưng dụng... để tạo nguồn BĐHC. Thực hiện quan điểm “dựa chắc vào dân”, ngành Cung cấp đã kết hợp chặt chẽ với HCND, tạo ra sức mạnh tổng hợp bảo đảm cho quân đội xây dựng, chiến đấu, góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, đáp lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân miền Bắc vừa sản xuất, vừa chiến đấu, đánh bại hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của Mỹ và làm tròn vai trò hậu phương lớn chi viện cho tiền tuyến lớn. Ở miền Nam, đi đôi với xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa kháng chiến, ta đã tiến hành chiến tranh nhân dân với ba mũi giáp công trên ba vùng chiến lược, nhiều “lõm hậu cần” với sự che chở, đùm bọc của nhân dân; các căn cứ hậu cần, hội đồng cung cấp các cấp được tổ chức vững chắc trên các chiến trường để huy động nguồn lực to lớn của nhân dân, góp phần quan trọng vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến.
Thời kỳ đổi mới, thực hiện Nghị quyết số 02 (30/7/1987) và Nghị quyết số 28 (22/9/2008) của Bộ Chính trị, Nghị định số152 (10/10/2007) và Nghị định số 02 (5/01/2016) của Chính phủ về tiếp tục xây dựng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ (KVPT) vững chắc trong tình hình mới, HCND các cấp có bước phát triển toàn diện, trở thành hệ thống thống nhất, là nền tảng của hậu cần KVPT; cùng với hậu cần của lực lượng vũ trang hợp thành hậu cần của nền quốc phòng toàn dân với thế trận và tiềm lực ngày càng vững mạnh; sẵn sàng chuyển thành thế trận và tiềm lực của hậu cần chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ mới cho công tác hậu cần của KVPT tỉnh, thành phố. Để quán triệt và vận dụng tốt quan điểm hậu cần phải dựa vào dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong công tác hậu cần KVPT, cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:
Một là, quán triệt và vận dụng sáng tạo các chủ trương, quan điểm, đường lối quốc phòng toàn dân, hậu cần toàn dân của Đảng; thể hiện tập trung trong chiến lược quốc phòng - an ninh (QP-AN) do Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) ban hành và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII. Trước hết, cấp ủy, chính quyền các cấp cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm về xây dựng, củng cố hệ thống tổ chức HCND địa phương, trong xây dựng KVPT vững mạnh toàn diện theo tinh thần Nghị quyết số 28 của Bộ Chính trị và Nghị định số 152 của Chính phủ. Đưa nội dung HCND địa phương vào chương trình giáo dục quốc phòng của tỉnh, thành phố; giúp mọi công dân xác định tốt trách nhiệm, tích cực tham gia xây dựng HCND địa phương các cấp.
Từng tỉnh, thành phố cần tranh thủ thời cơ, lợi thế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH); làm cơ sở phát triển lực lượng HCND địa phương. Chú trọng củng cố, phát triển hệ thống tổ chức HCND địa phương các cấp, trước hết là cấp cơ sở; thực hiện ở đâu có tổ chức KT-XH, tổ chức quần chúng, ở đó có tổ chức HCND tương ứng vững mạnh, hoạt động có hiệu quả. Cấp ủy, chính quyền các địa phương cần quan tâm nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, chính sách để thu hút nguồn lực của các thành phần kinh tế, đẩy mạnh phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với xây dựng nông thôn mới, nâng cao sức sản xuất; nhằm phát triển KT-XH, nâng cao đời sống nhân dân và tăng cường khả năng BĐHC tại chỗ ngay từ cơ sở.
Hai là, thường xuyên kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng cung cấp KVPT tỉnh, huyện; xây dựng quy chế hoạt động chặt chẽ, hiệu quả; giúp cấp ủy, chính quyền địa phương xây dựng, huy động các nguồn lực trong nhân dân (trong đó có hậu cần - kỹ thuật), đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ QP-AN trong mọi tình huống. Cùng với việc nâng cao năng lực, trình độ mọi mặt, cấp ủy, chính quyền địa phương cần tổ chức quán triệt đầy đủ nội dung, yêu cầu, nhiệm vụ; nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm; rèn luyện tác phong làm việc khoa học, có kế hoạch cho các thành viên hội đồng nhằm đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ tác chiến khi xảy ra chiến tranh...
Ba là, phối hợp với các cơ quan chức năng tiếp tục rà soát, nghiên cứu, đề xuất Bộ Quốc phòng và Chính phủ hoàn thiện cơ chế, chính sách, hành lang pháp lý để huy động có hiệu quả nguồn lực của HCND trong tình hình mới, nhất là khi xảy ra chiến tranh. Trên cơ sở Nghị quyết của Bộ Chính trị và Nghị định của Chính phủ về KVPT, từng địa phương cần nghiên cứu, vận dụng sáng tạo, phù hợp với thực tiễn. Kế thừa, phát triển kinh nghiệm trưng dụng, trưng thu, trưng mua, thuê mướn, vay, ứng trước trừ thuế... phù hợp với điều kiện mới. Chú trọng kết hợp chặt chẽ giữa huy động và bồi dưỡng sức dân, sử dụng minh bạch, tiết kiệm và hiệu quả nguồn lực hậu cần do nhân dân đóng góp. Bên cạnh đó, tiếp tục duy trì, thực hiện tốt phong trào “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”; nâng cao hiệu quả các dự án kết hợp kinh tế - quốc phòng, các khu kinh tế - quốc phòng và đoàn kinh tế - quốc phòng; thiết thực góp phần xóa đói, giảm nghèo cho nhân dân các địa phương, nhất là các địa bàn biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ địa cách mạng...
Bốn là, phát huy vai trò của hậu cần quân sự địa phương trong xây dựng HCND địa phương các cấp. Định kỳ rà soát, hoàn thiện các kế hoạch xây dựng tiềm lực, thế trận hậu cần; kế hoạch bảo đảm cho các nhiệm vụ; tổ chức phòng thủ dân sự chặt chẽ; kế hoạch sản xuất thời chiến... Trọng tâm là tổ chức dự trữ vật chất; phương án huy động nhân lực, vật chất, phương tiện từ HCND trong các tình huống. Kết hợp chặt chẽ dự trữ trong dân, trong các ngành với dự trữ quốc gia và của lực lượng vũ trang trên các địa bàn theo các phương án của KVPT và cấp trên; sẵn sàng bảo đảm trong các tình huống, hạn chế tối đa cơ động từ xa đến. Hậu cần chiến lược và các quân khu cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng của các bộ, ngành Trung ương tăng cường chỉ đạo hướng dẫn các địa phương xây dựng, củng cố, duy trì hoạt động của HCND địa phương; khảo sát nắm chắc thực lực, khả năng huy động nguồn lực của HCND từng cấp. Chú trọng kết hợp chặt chẽ giữa huấn luyện với diễn tập; tăng cường khả năng phối hợp giữa HCND với các lực lượng hậu cần khác của KVPT và hậu cần đơn vị chủ lực trong các tình huống.
Năm là, từng bước mở rộng xã hội hóa công tác hậu cần trong KVPT nhằm phát huy vai trò to lớn của HCND trong xây dựng quân đội, tăng cường QP-AN trong giai đoạn mới. Trên cơ sở nắm vững chủ trương, pháp luật hiện hành, tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, hệ thống tiêu chuẩn hàng hóa, dịch vụ; tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, quản lý, điều hành; từng bước mở rộng xã hội hóa công tác hậu cần theo lộ trình hợp lý, vừa bảo đảm nhu cầu thời bình, vừa sẵn sàng đáp ứng nhu cầu hậu cần trong các tình huống chiến tranh...
Nắm vững, vận dụng sáng tạo quan điểm hậu cần phải dựa dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác hậu cần KVPT tỉnh, thành phố hiện nay là việc làm hết sức cần thiết; góp phần phát huy sức mạnh tổng hợp để xây dựng các tỉnh, thành phố thành KVPT vững chắc trong tình hình mới.
Trung tá, ThS Lê Thành Công, Nghiên cứu sinh Học viện Hậu cần
Trung tá Huỳnh Quốc Trưởng, Phó CNHC Bộ CHQS tỉnh Quảng Nam