Những nội dung cơ bản của chính sách Bảo hiểm y tế quân nhân (BHYTQN) là: QN tham gia BHYT không phải đóng phí BHYT, mà hoàn toàn do ngân sách Nhà nước đóng dựa theo mức tiền lương hoặc mức lương cơ sở (khác với việc sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp trích đóng tiền lương cho quỹ bảo hiểm xã hội (BHXH)). QN được cấp thẻ BHYT và sử dụng để thanh toán các chi phí KBCB ở các cơ sở KBCB BHYT quân y hoặc dân y (thay thế cho việc cấp giấy giới thiệu đi KBCB của quân y đơn vị như trước đây). Đồng thời, được quyền lựa chọn đăng ký nơi KBCB ban đầu và chuyển tuyến KBCB thuận tiện nơi đóng quân, công tác hoặc cư trú, thường trú. Điều này tạo thuận lợi cho QN được tiếp cận nhanh chóng với cơ sở y tế gần nhất, giảm thời gian, chi phí đi lại. Trước hết, ưu tiên cho đăng ký ban đầu và chuyển tuyến KBCB trong hệ thống quân y từ bệnh xá tuyến đơn vị đến các bệnh viện tuyến cuối của quân khu và tương đương, bệnh viện trực thuộc Bộ Quốc phòng.

Tham gia BHYT, QN có phạm vi quyền lợi, mức hưởng BHYT ở mức cao khi đi KBCB đúng quy định, đủ thủ tục tại các bệnh viện, bệnh xá quân y hoặc dân y. Ngoài các chi phí KBCB trong phạm vi quy định của BHYT (như các đối tượng tham gia BHYT khác) còn được quỹ BHYT chi trả các chi phí (khi có chỉ định chuyên môn của cơ sở KBCB) về thuốc, hóa chất, vật tư y tế được phép lưu hành tại Việt Nam và các dịch vụ kỹ thuật y tế được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Đặc biệt, được chi trả 100% tiền thuốc, hóa chất, dịch vụ kỹ thuật y tế có áp dụng điều kiện, tỷ lệ thanh toán đối với người tham gia BHYT khác. Điều này có ý nghĩa rất lớn, thể hiện trách nhiệm, tình cảm đối với sức khỏe quân nhân, nhất là khi mắc bệnh lý mãn tính như tim mạch, suy thận, tâm thần kinh hoặc bệnh lý phải điều trị dài ngày…, góp phần giảm bớt khó khăn cho QN, đơn vị và gia đình.

Thực hiện BHYT QN, sẽ tạo được sự liên thông, phối hợp, đan xen giữa cơ sở quân y, dân y, giúp QN được tiếp cận với kỹ thuật y tế cao, tiên tiến. Đồng thời, tạo động lực cho cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động chuyên môn của cơ sở KBCB trong và ngoài Quân đội. Từ đó, từng bước nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực quản lý, điều hành cơ chế quản lý tài chính BHYT, ổn định tổ chức lực lượng chuyên môn, góp phần tích lũy tiềm lực y tế, sẵn sàng đáp ứng khi có tình huống thiên tai, thảm họa xảy ra.

BHYTQN tuy mới triển khai được hai năm, với 60% quân số tham gia, song, bước đầu đã khẳng định được tính đúng đắn, sự phát triển tất yếu của luật pháp về BHYTQN; quyền, lợi ích CSSK và KBCB đối với QN được bảo đảm, không ảnh hưởng, tác động đến tổ chức, biên chế, chức năng, nhiệm vụ của ngành Quân y cũng như nhiệm vụ chính trị thường xuyên của các cơ quan, đơn vị. Từ khi có chủ trương này, các cơ sở KBCB của Quân đội đã chủ động, tích cực tham gia KBCB BHYT cho QN và người tham gia BHYT khác trên địa bàn. Quỹ KBCB được quản lý chặt chẽ, sử dụng đúng mục đích; phần quỹ KBCB kết dư được đầu tư cho các bệnh viện, bệnh xá quân y mua sắm bổ sung các trang thiết bị thiết yếu để nâng cao chất lượng chẩn đoán, điều trị.

Bên cạnh những hiệu quả tích cực, có thể thấy, BHYTQN là phương thức hoàn toàn mới trong CSSK và KBCB, do đó, quá trình triển khai áp dụng không tránh khỏi những hạn chế, vướng mắc, khó khăn phát sinh như: Công tác phổ biến, quán triệt, hướng dẫn các quy định của pháp luật về BHYTQN chưa thật sự chủ động, do đó, chưa có tác động tích cực đến phương pháp, chất lượng, hiệu quả tổ chức thực hiện về hồ sơ, thủ tục, quy trình. Thời gian cấp thẻ BHYT hoặc lựa chọn đăng ký ban đầu, thủ tục KBCB và chuyển tuyến chuyên môn còn nhiều vướng mắc. Một số trường hợp QN không nắm chắc quyền lợi khi đi KBCB. Một số ít cơ sở KBCB BHYT chưa bảo đảm đúng, đầy đủ, kịp thời quyền lợi, mức hưởng BHYT của QN; việc liên thông chuyển tuyến chuyên môn giữa cơ sở KBCB dân y, quân y vẫn còn hạn chế. Một số quy định về chế độ quản lý hoặc bảo đảm quyền lợi không phù hợp, chậm được sửa đổi, bổ sung...

Thực hiện Quyết định số 5162/QĐ-BQP ngày 12/12/2016 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, ngay trong quý 4/2017, BHXH Bộ Quốc phòng đã phối hợp với các cơ quan, đơn vị triển khai thực hiện cấp thẻ BHYT đối với 100% quân nhân (bao gồm cả QN có kế hoạch chuyển ra trong quý 1/2018).

Để bảo đảm cho 100% QN tại ngũ được quyền CSSK và KBCB theo hình thức BHYTQN mới, đề nghị các cơ quan, đơn vị cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau đây:

Một là, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, người chỉ huy kết hợp với phát huy vai trò, chức năng sức mạnh tổng hợp của cơ quan cán bộ, quân lực, quân y và tài chính các cấp, bảo đảm triển khai thực hiện 100% QN tại ngũ tham gia BHYT theo quy định của Bộ Quốc phòng với chất lượng CSSK QN ngày càng tốt hơn, hệ thống các bệnh viện, bệnh xá quân y có trình độ chuyên môn cao hơn, hòa nhập với hệ thống y tế nhà nước. Tiếp tục quán triệt Chỉ thị số 38-CT/TW ngày 07/9/2009 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khóa XI) về “Đẩy mạnh công tác BHYT trong tình hình mới”; Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị (Khóa XI) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012 - 2020” và Chỉ thị số 210-CT/QUTW ngày 01/4/2016 của Thường vụ Quân ủy Trung ương về việc “Lãnh đạo tổ chức thực hiện BHYT đối với QN tại ngũ giai đoạn 2016 - 2020 và những năm tiếp theo”.

Hai là, tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, tập huấn, hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao năng lực quản lý, tổ chức thực hiện chế độ, chính sách BHYT của QN đến các cơ quan, đơn vị và cán bộ phụ trách. Qua đó, giúp mỗi cán bộ, nhân viên nắm chắc nghiệp vụ, triển khai có hiệu quả nhằm tăng cường và mở rộng về quyền lợi CSSK và KBCB, tạo môi trường thuận lợi cho QN khi đi KBCB và tiếp cận các dịch vụ kỹ thuật y tế cao, mới, hiện đại và tăng nguồn lực tài chính bảo đảm việc KBCB thường xuyên từ quỹ KBCB BHYT.

Ba là, chủ động nghiên cứu, hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thực hiện BHYT đối với QN tại ngũ cho phù hợp hơn với đặc thù hoạt động quân sự - quốc phòng. Trước mắt, BHXH BQP phối hợp với các cơ quan đề xuất với Bộ Quốc phòng phân cấp quản lý, cấp thẻ BHYT,  sửa đổi, bổ sung một số quy định về trách nhiệm quản lý thẻ BHYT quân nhân; tỉ lệ trích chuyển và nội dung sử dụng kinh phí KBCB tại quân y đơn vị; chế độ hưởng, thanh toán tiền ăn chênh lệch bệnh lý điều trị nội trú tại bệnh viện dân y; bổ sung quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan quản lý về BHYT đối với các cơ sở quân y hợp đồng KBCB BHYT…

Bốn là, đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý đối tượng và thu, nộp BHYT; KBCB và giám định BHYT; quản lý, sử dụng quỹ KCB BHYT. Các cơ quan chức năng cần phối hợp chặt chẽ trong công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát việc tổ chức thực hiện BHYT QN, kịp thời phát hiện và giải quyết các vấn đề sai sót, vướng mắc phát sinh. Rà soát công tác cấp thẻ BHYT, bảo đảm 100% QN đi KBCB bằng thẻ BHYT, kể cả trong các trường hợp cấp thẻ chậm vì các lý do khách quan, chờ cấp lại, đổi thẻ đều được tiếp nhận, KBCB và bảo đảm đúng, đủ quyền lợi, chế độ BHYT.  

Năm là, tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả chương trình quân dân y kết hợp, lồng ghép lực lượng quân y, dân y trong việc CSSK và KBCB cho nhân dân và bộ đội, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Mở rộng mối quan hệ, phối hợp chặt chẽ để nhận sự chỉ đạo về nghiệp vụ của BHXH Việt Nam; liên kết chặt chẽ với BHXH 63 tỉnh, thành phố và các cơ sở KBCB BHYT để bảo đảm hiệu quả công tác KBCB bằng BHYT cho QN tại ngũ trên địa bàn cả nước.  

BHYT đối với QN tại ngũ là một chính sách hoàn toàn mới đối với Quân đội ta, là sự thay đổi phương thức và nguồn bảo đảm tài chính trong việc CSSK nhằm mở rộng quyền lợi KCB của QN trong thời bình, mở rộng trách nhiệm KBCB cho QN ra toàn hệ thống y tế cả nước. Vì vậy, các cơ quan, đơn vị cần nghiên cứu, triển khai tổ chức thực hiện và kịp thời báo cáo các phát sinh từ thực tiễn lên cơ quan chức năng để phối hợp giải quyết, góp phần đưa BHYTQN  nhanh chóng đi vào nền nếp, hiệu quả, góp phần nâng cao sức khỏe, sức chiến đấu cho mỗi QN và Quân đội.

Kể từ ngày 01/01/2018, khi quân nhân đi KBCB và chuyển tuyến KBCB bằng thẻ BHYT, các chi phí KBCB ở các cơ sở KBCB quân y, dân y do quỹ BHYTQN chi trả và không sử dụng ngân sách quốc phòng bảo đảm cho KBCB thường xuyên tại tuyến quân y đơn vị và bệnh viện, bệnh xá Quân đội. Ngân sách quốc phòng chỉ bảo đảm cho các nhiệm vụ khác của ngành Quân y như SSCĐ,  nhiệm vụ thời chiến, thiên tai, thảm họa, vệ sinh phòng dịch, khám sức khỏe định kỳ hằng năm, huấn luyện, đào tạo, v.v…

Nghiên cứu đề xuất việc bảo đảm thuốc, vật tư y tế và phương thức KBCB đối với quân y các đơn vị đóng quân ở biên giới, hải đảo… theo hướng như đối với quân y Trường Sa- DK, bảo đảm đủ thuốc, vật tư y tế có chất lượng tốt cho KBCBQN ngay tại đơn vị, những trường hợp vượt khả năng chuyên môn thì được chuyển tới bất cứ cơ sở quân y, dân y thuận tiện nhất để điều trị, không phân biệt tuyến chuyên môn và hạng cơ sở KBCB.

Đại tá NGUYỄN VĂN ĐỊNH (Giám đốc Bảo hiểm Xã hội Bộ Quốc phòng)