Trong thời gian hơn một tháng, bằng ba chiến dịch tác chiến hiệp đồng quân binh chủng quy mô lớn là chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng và đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 của quân và dân ta đã giành được toàn thắng, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Để tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, Tổng cục Hậu cần (TCHC) đã tham mưu với Quân ủy Trung ương-Bộ Quốc phòng về công tác hậu cần và chỉ huy, chỉ đạo các lực lượng hậu cần chuẩn bị chu đáo, chuyển hóa linh hoạt thế trận hậu cần (TTHC) bảo đảm cho tác chiến thắng lợi.

Lo trước, đi trước một bước về hậu cần

Thực hiện Nghị quyết số 21 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (7/1973), TCHC đã xây dựng và triển khai Kế hoạch Hậu cần 3 năm (1973-1975), trọng tâm là chi viện cho các chiến trường về lực lượng, phương tiện và 316.000 tấn vật chất. Thực hiện chủ trương đó, việc chuẩn bị hậu cần được tiến hành toàn diện ở các cấp. Sau khi Hiệp định Pari được ký kết, ta đẩy mạnh xây dựng, phát triển tuyến giao thông vận tải chiến lược, mở rộng, hoàn thiện mạng lưới giao thông đường bộ, đường ống ở Đông và Tây Trường Sơn, đảm bảo cho vận chuyển bằng cơ giới quy mô lớn, đồng thời, phát triển mạnh mạng đường chiến dịch trên các chiến trường. Chỉ trong 2 năm (1973-1974), bộ đội Trường Sơn đã mở thêm 5.560 km đường bộ, đưa tổng chiều dài đường Trường Sơn lên 16.790 km; xây dựng, bảo vệ, vận hành thông suốt tuyến đường ống xăng dầu chiến lược dài hơn 5.000km từ Lạng Sơn, Móng Cái vượt Trường Sơn vươn tới Bù Gia Mập (Bình Phước) để bảo đảm cho chiến dịch. Thực hiện chỉ đạo của TCHC, các chiến trường đẩy mạnh phát triển đường vận tải, mở thêm hơn 6.000 km đường chiến dịch nối với đường Trường Sơn và hệ thống đường đã có, tạo TTHC liên hoàn, vững chắc.

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, hậu cần chiến lược (HCCL) đã nhanh chóng tổ chức 02 tuyến vận tải: Tuyến 1, theo đường Trường Sơn từ Tây Nguyên theo đường 14a, 14b tới Tổng kho Đồng Xoài; tuyến 2, theo đường biển vào Đà Nẵng và Cam Ranh rồi chuyển tiếp bằng đường bộ vào Xuân Lộc. Hậu cần chiến dịch (HCCD) tổ chức 6 tuyến vận tải để vận chuyển bảo đảm cho các đơn vị. TCHC còn chủ trì phối hợp với các cơ quan, đơn vị tổ chức vận tải ở hậu phương và đường Trường Sơn bảo đảm cho “thời cơ lớn”. Tuyến Đông Trường Sơn tổ chức 10 trạm giao liên với 10 cung vận chuyển (1.030 km); tuyến Tây Trường Sơn tổ chức 5 trạm giao liên với 5 cung vận chuyển (840 km). Nhờ vậy, HCCL đã vận chuyển cho các chiến trường được 823.146 tấn vật chất. Bên cạnh đó, TCHC còn phối hợp, hiệp đồng với Bộ Tư lệnh Trường Sơn tổ chức bảo đảm cho 411.161 người, 296 khẩu pháo đất, 974 khẩu pháo cao xạ, 457 chiếc xe tăng - thiết giáp... hành quân vào các chiến trường.

leftcenterrightdel
Xe tăng của Quân giải phóng ở Dinh Độc Lập ngày 30-4-1975. Ảnh tư liệu.

Chỉ đạo tăng cường khả năng bảo đảm tại chỗ, hoàn chỉnh thế trận

Nhằm tăng cường khả năng bảo đảm hậu cần (BĐHC) tại chỗ, từ năm 1973 - 1974, TCHC đã điều vào các chiến trường: 76 đội phẫu, đội điều trị; 01 đại đội đại tu ô tô; 36 trạm tiểu tu; 3.680 cán bộ, lái xe; 2.148 tấn phụ tùng xe máy; tăng cường cho Hậu cần Miền (B2) một trung đoàn ô tô vận tải; cho Quân khu 5 và Mặt trận Tây Nguyên (B3) mỗi nơi 1 tiểu đoàn ô tô vận tải; tổ chức 15 trung đoàn (20.000 người) bổ sung cho B2 và B3 để sản xuất lương thực, thực phẩm tại chỗ và sẵn sàng bổ sung cho các chiến trường khác khi cần.

Để bảo đảm cho tác chiến, TCHC chỉ đạo các chiến trường điều chỉnh thế trận cho phù hợp với yêu cầu tác chiến: Hậu cần Quân khu Trị Thiên (B4) sáp nhập với Hậu cần Bắc Quảng Trị (B5), triển khai thành 3 căn cứ (A Sầu, A Lưới và Ba Lòng). Hậu cần Quân khu 5 tăng cường lực lượng cho các căn cứ: H1 ở Đại Lộc, H2 ở Bình Sơn, H3 ở Hóc Đèn - Bắc đường 19 (Bình Định). Hậu cần B3 tăng cường lực lượng và điều chỉnh thế bố trí, gồm: Căn cứ Hậu cần (CCHC) cánh Bắc (Tà Xẻng - Đắc Tô) bảo đảm cho hướng Kon Tum; CCHC cánh giữa (Chưplô - Phunơ) bảo đảm cho hướng Plâycu; CCHC cánh Nam (Plâyme - Chư Pông) bảo đảm cho hướng Nam đường 19 và tổ chức Kho K10 ở Ia Súc, Kho K20 ở Bắc Đức Lập để bảo đảm cho tiến công Đức Cơ. Hậu cần B2 bổ sung lực lượng cho các Quân khu 8, 9; điều chỉnh tổ chức và thế bố trí hậu cần, gồm 5 căn cứ phía trước, 3 căn cứ phía sau, kết hợp với các CCHC của Quân khu 6 (ở Tánh Linh, Võ Đắc), Quân khu 7 (ở Bà Rịa), Quân khu Sài Gòn - Gia Định (ở Củ Chi), Quân khu 8 (ở Đồng Tháp Mười - Cần Giuộc), tạo TTHC liên hoàn, vững chắc xung quanh Sài Gòn - Gia Định, là cơ sở tổ chức TTHC chiến dịch Hồ Chí Minh.

Tổ chức bảo đảm hậu cần Chiến dịch Hồ Chí Minh

Sau các chiến dịch Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng (3/1975) thắng lợi, địch rơi vào thế tuyệt vọng, sụp đổ hoàn toàn, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn ngay trong tháng 4/1975. Đây là trận quyết chiến chiến lược, tác chiến hiệp đồng quân binh chủng quy mô lớn nhất trong 30 năm chiến tranh giải phóng. Trong thời gian ngắn (từ ngày 05-26/4/1975), cùng với cơ động các đơn vị chiến lược vào Đông Nam Bộ; hậu cần phải bổ sung 20.000 tấn vật chất, trong khi đó, địa bàn mở chiến dịch ở xa hậu phương gần 2.000 km, phương tiện vận chuyển vô cùng khó khăn. Với tinh thần “Tất cả để chiến thắng”, hơn 7.064 xe ô tô (có 3.364 xe của TCHC và Bộ Tư lệnh Trường Sơn), 32 tàu biển của quân đội; 311 toa tàu hỏa... được huy động vận chuyển lực lượng và binh khí kỹ thuật vào Nam Bộ. Ngày 24/4/1975, các đơn vị vào vị trí tập kết an toàn.

Trên cơ sở quyết tâm chiến dịch, bộ máy HCCD được hình thành: Trung tướng Đinh Đức Thiện - Chủ nhiệm TCHC, kiêm Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật là Phó Tư lệnh Chiến dịch về hậu cần; Thiếu tướng Bùi Phùng - Chủ nhiệm Hậu cần B2 là Chủ nhiệm HCCD. Việc điều chỉnh lực lượng, thế bố trí và bổ sung vật chất cho tác chiến được gấp rút hoàn thiện: Điều thêm ra phía trước 10.000 người, 15 bệnh viện dã chiến, 17 đội điều trị có khả năng thu dung 10.000 thương binh; thành lập 8 tiểu đoàn cơ động phục vụ bốc xếp và làm đường. Để kịp bổ sung 20.000 tấn vật chất còn thiếu (chủ yếu là đạn pháo lớn và xăng dầu), TCHC đã chỉ đạo thu gom từ miền Trung, Tây Nguyên, tuyến Trường Sơn được 5.100 tấn đạn, 600 tấn xăng dầu và chỉ đạo hậu cần các đơn vị mang theo hành quân 5.000 tấn đạn, 1.500 tấn xăng dầu... Nhờ đó, hậu cần chiến dịch Hồ Chí Minh đã có dự trữ 55.000 tấn vật chất các loại, đạt 90% nhu cầu tác chiến, đây là một trong những kỳ tích trong công tác BĐHC của Quân đội ta.

Có thể khẳng định, quán triệt sâu sắc quyết tâm chiến lược của Đảng, TCHC đã cùng toàn Ngành tích cực, chủ động đi trước một bước về hậu cần; kết hợp và phát huy tối đa khả năng của hậu cần quân đội và hậu cần nhân dân tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn của hậu cần chiến tranh nhân dân, bảo đảm cho Đại thắng mùa Xuân 1975. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Quân uỷ Trung ương - Bộ Quốc phòng, phát huy truyền thống vẻ vang 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, với bản lĩnh và trí tuệ, nhất định cán bộ, chiến sĩ ngành Hậu cần nói chung, TCHC nói riêng sẽ tiếp tục xây dựng ngành Hậu cần Quân đội vững mạnh toàn diện, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, cùng toàn quân, toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống.

Đại tá, Ths TRẦN ĐÌNH QUANG