Trong một tháng tổ chức bảo đảm cho các lực lượng chiến đấu bảo vệ biên giới, ngành Hậu cần Quân đội đã nỗ lực rất lớn, làm nòng cốt cùng với hậu cần địa phương, hậu cần nhân dân đáp ứng được yêu cầu của một cuộc chiến đấu ở mức hạn chế, góp phần quan trọng làm nên chiến thắng.
Để thực hiện quyết tâm chiến lược, dựa vào kế hoạch tác chiến của Bộ, Tổng cục Hậu cần đã nhanh chóng triển khai các mặt công tác bảo đảm cho chiến tranh; chủ động và kịp thời bổ sung vật chất cho các quân khu phía Bắc và đơn vị chiến đấu phía trước. Đề nghị Nhà nước huy động cấp tốc xe ô tô tăng cường cho các quân khu và đơn vị chiến đấu; khẩn trương tiếp nhận vật chất và lực lượng hậu cần từ Nam ra bảo đảm cho tác chiến. Chỉ đạo ngừng chuyển thương binh ở phía Nam ra để tập trung khả năng bảo đảm cho tác chiến ở phía Bắc. Tăng cường lực lượng quân y cho phía trước, chỉ đạo các bệnh viện hậu phương sẵn sàng chi viện và tổ chức tiếp nhận thương bệnh binh. Triển khai các cơ sở hậu cần chiến lược, tổ chức tiền phương Tổng cục Hậu cần ở phía Bắc. Tiếp tục di chuyển các cơ sở, kho trạm hậu cần vào sâu nội địa.
Trong những ngày đầu chiến đấu, cùng những mũi tiến công chủ yếu vào trận địa phòng ngự, đối phương đã dùng nhiều mũi vu hồi chiến thuật đánh vào hậu phương của ta. Do bố trí hậu cần các đơn vị chiến thuật của ta còn chưa hợp lý, nên một số trung đoàn phía trước của ta bị đối phương uy hiếp, tổn thất. Mặt khác, việc bố trí hậu cần các cấp chưa liên hoàn với nhau, mạng đường sá vận chuyển chưa được chuẩn bị chu đáo, nên việc chi viện về hậu cần giữa các đơn vị chiến đấu không thực hiện được, phải điều chỉnh lại bố trí hậu cần.
Ở tuyến chiến dịch, việc bố trí các căn cứ phía trước của Quân khu 1 và Quân khu 2 cơ bản phù hợp với yêu cầu tác chiến. Nhưng trên hướng Cao Bằng, căn cứ T1 của Quân khu 1 chỉ cách tuyến hậu cần sư đoàn và tỉnh đội 10-20 km, nên khi đối phương tiến về phía Cao Bằng, căn cứ này bị uy hiếp. Trước tình hình đó, hậu cần Quân khu 1 đã nhanh chóng triển khai Binh trạm 1 ở Nà Phặc, Phủ Thông để thay thế T1 bảo đảm cho hướng Cao Bằng, đồng thời mở tuyến vận tải bộ từ Bằng Khẩu về phía Đông Nam để bảo đảm cho tác chiến ở hướng Đông Khê. Trên hướng Hoàng Liên Sơn, căn cứ K1 (Bảo Yên) chỉ bảo đảm được cho các lực lượng ở Tả Ngạn sông Hồng, Quân khu 2 đã nhanh chóng triển khai một bộ phận sang Hữu Ngạn sông Hồng mở đường vận chuyển từ Khe Xếch lên Xuân Giao bảo đảm cho tác chiến ở hướng Cam Đường. Riêng căn cứ T3 bố trí quá sâu, không tiện đường giao thông, thiếu phương tiện vận tải nên chỉ bảo đảm được một phần cho hướng Đình Lập, khó khăn trong bảo đảm cho hướng Quảng Ninh. Như vậy, qua thực tế chiến đấu, ta đã điều chỉnh lại thế bố trí hậu cần hợp lý hơn để phù hợp với yêu cầu tác chiến ở phía trước. Hơn nữa, tuyến hậu cần chiến lược đã triển khai để làm tuyến sau cho Quân khu 1, 3 ở hướng Lạng Sơn, Quảng Ninh.
Về bảo đảm vật chất, Tổng cục Hậu cần đã tập trung khả năng và phương tiện của mình cùng với Nhà nước để kịp thời tăng cường các nhu cầu vật chất cho các đơn vị tác chiến; Tổng cục chuyển thẳng vật chất tới các căn cứ phía trước của quân khu, kể cả những hướng quân khu không bảo đảm được, như Quảng Ninh, Đình Lập, thậm chí tới tuyến trung đoàn. Đối với các đơn vị chiến đấu ở phía sau lưng địch, đã đề nghị Bộ Quốc phòng cho máy bay thả dù và trực thăng hạ cánh trực tiếp chuyển vật chất cho bộ đội.
Trong những ngày đầu chiến tranh, việc bảo đảm sinh hoạt cho một số đơn vị chiến đấu ở các chốt phía trước còn gặp khó khăn, do địch vu hồi đánh vào phía sau, đánh vào chân chốt là nơi đặt bếp nấu ăn, nhiều đơn vị đại đội, tiểu đoàn bị tổn thất dụng cụ cấp dưỡng, lương thực, thực phẩm dữ trữ cho chiến đấu. Ngay sau đó, các đơn vị đã kịp thời chấn chỉnh, tổ chức nấu ăn từ phía sau đưa lên, đơn vị này nấu ăn cho đơn vị khác, nhân dân hết lòng giúp đỡ, tiếp tế cho bộ đội. Do đó việc bảo đảm sinh hoạt được nhanh chóng ổn định. Bên cạnh lượng vật chất dự trữ của bộ đội, trong thời gian ngắn, các địa phương đã đóng góp một lượng huy động tại chỗ gần 500 tấn, tuy không lớn so với tổng số vật chất sử dụng, nhưng là một nguồn quan trọng tại chỗ, bảo đảm kịp thời cho bộ đội chiến đấu.
Về bảo đảm quân y, trong những ngày đầu chiến đấu, tỷ lệ tử vong hoả tuyến khá cao (thương binh 5,7% trong 30 ngày chiến đấu) do không có lực lượng vận tải, tải thương bộ để chuyển thương binh kịp thời. Bên cạnh đó, lực lượng quân y của đơn vị đại đội, tiểu đoàn nói chung thiếu; việc cấp cứu ở hỏa tuyến chưa tốt. Tuy nhiên, việc cứu chữa thương binh từ tuyến quân y trung đoàn và các tuyến sau được thực hiện tốt. Quân y các trung đoàn, sư đoàn, tỉnh đội đã kết hợp được chặt chẽ với dân y, tổ chức thành các khu vực cứu chữa thương binh. Ngay từ trong thời kỳ chuẩn bị, cả hai quân khu đã tổ chức hội nghị giữa dân y và quân y để bàn việc kết hợp quân dân y. Bộ Y tế đã cử những kíp phẫu thuật của các bệnh viện phía sau (Bệnh viện Việt Đức, Bệnh viện Việt Tiệp...) tăng cường cho các bệnh viện huyện ở phía trước. Các bệnh viện dân y đã tiếp nhận 32,3% tổng số thương binh để cứu chữa. Ở khu vực bị địch chia cắt như Cao Bằng, Hoàng Liên Sơn, ngoài bệnh viện, bệnh xá dân y, nhân dân các địa phương đã nhận trông nom, chăm sóc thương binh, phân tán về các gia đình khi lực lượng chiến đấu chuyển sang hướng khác.
Công tác vận tải trong quá trình chiến tranh giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Tổng cục Hậu cần phải chuyển một số vật chất từ các kho phía Nam ra, do đó khối lượng vận chuyển rất lớn lên tới 17.618.740 tấn/km, bằng nhiều phương thức, (trong đó vận chuyển bằng ôtô chiếm 42,9%, đường sắt 45,8%, đường biển 10,5%, đường sông 0,5% và đường không 0,3%). Tính chung lực lượng vận tải quân đội vận chuyển 34,5%, lực lượng vận tải của Nhà nước vận chuyển 65,5%. Đồng thời công tác vận tải phải bảo đảm việc cơ động lực lượng chiến đấu và binh khí kỹ thuật trên các hướng 43.344.190 tấn/km theo các phương thức: Đường sắt là 58,8%, đường không 23,9%, đường ô tô 10%, đường thủy 7,3%. Như vậy, chỉ trong một tháng, khối lượng vận chuyển lên tới 60.962.930 tấn/km, tương đương khối lượng vận chuyển của 6 tháng đầu năm 1978. Ở tuyến các quân khu, khối lượng vận chuyển cho chiến đấu cũng rất lớn. Lực lượng vận tải của quân khu chỉ đảm nhiệm được một phần, còn phải huy động các xe vận tải của ngành giao thông vận tải. Quân khu 1 đã vận chuyển cho các đơn vị 15.031 tấn (1.738.502 tấn/km), trong đó lực lượng vận tải của quân khu vận chuyển 32,6%, còn lực lượng giao thông vận tải phụ trách 67,4%. Quân khu 2 đã vận chuyển cho đơn vị 5.895 tấn (1.015.473 tấn/km); trong đó lực lượng vận tải quân sự vận chuyển 62,5%, lực lượng giao thông vận tải phụ trách 37,5%. Trong điều kiện lực lượng vận tải của quân đội thiếu, Tổng cục Hậu cần cũng như hậu cần quân khu và một số đơn vị đã huy động lực lượng vận tải của Nhà nước tương đối lớn để kịp thời phục vụ cho yêu cầu chiến đấu. Đó là điều cần thiết và hợp lý, vận dụng được sức mạnh tổng hợp của các ngành. Ở chiến trường rừng núi biên giới phía Bắc, hệ thống đường giao thông rất hạn chế, việc chuẩn bị mở thêm đường mất nhiều lực lượng và thời gian nên trong quá trình chiến đấu chưa đáp ứng được yêu cầu cơ động và vận chuyển cơ giới của hậu cần.
Qua 30 ngày đêm chiến đấu, quân dân ta đã anh dũng, kiên cường bảo vệ biên cương của Tổ quốc, loại khỏi vòng chiến đấu 62.500 tên địch (hơn 1/10 quân số huy động vào cuộc chiến tranh); tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn, 18 tiểu đoàn, bắn cháy và phá hủy 550 xe quân sự (trong đó có 280 xe tăng, xe bọc thép) ; phá huỷ 115 khẩu pháo và cối hạng nặng, thu nhiều vũ khí, đồ dùng quân sự. Những thành công của công tác hậu cần đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của quân và dân ta trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trên biên giới phía Bắc.
Đại tá, PGS, TS Dương Hồng Anh, Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự