Để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Đảng ta xác định: Con đường của cách mạng miền Nam phải bằng bạo lực, đồng thời kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang...

Với chủ trương đó, Bộ Chính trị quyết định thành lập “Đoàn công tác quân sự đặc biệt” (sau đổi tên là Đoàn 559), với nhiệm vụ mở đường vận chuyển hàng quân sự chi viện miền Nam; tổ chức đưa đón bộ đội, cán bộ; chuyển công văn tài liệu từ Bắc vào Nam và ngược lại. Cùng với việc vận chuyển chi viện bằng đường bộ, Đoàn 559 được giao nhiệm vụ tổ chức vận chuyển chi viện cho miền Nam bằng đường biển. Lực lượng nòng cốt thực hiện nhiệm vụ này được giao cho Tiểu đoàn 603 với tên gọi “Tập đoàn đánh cá miền Nam” (thành lập 7/1959, đứng chân ở thôn Thanh Khê, xã Thạch Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình).

Sau một thời gian chuẩn bị mọi mặt, Tiểu đoàn 603 tổ chức 2 chiếc thuyền gỗ vận chuyển chuyến hàng đầu tiên (năm 1960), đưa vũ khí vào Khu 5, nhưng không thành công do gặp bão, thuyền bị hỏng nặng và gặp địch, phải thả hàng xuống biển phi tang. Nhận thấy việc dùng thuyền gỗ chạy buồm chở vũ khí vào Nam khó khăn và không an toàn, Quân ủy Trung ương - Bộ Quốc phòng chỉ thị cho Đoàn 559 tạm ngừng hoạt động của Tiểu đoàn 603 và sáp nhập đơn vị này vào Tiểu đoàn 301 để tập trung xoi mở đường Hồ Chí Minh trên bộ.

leftcenterrightdel
Tàu không số vận chuyển hàng hóa, vũ khí trên tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển. Ảnh: Tư liệu.

Sau khi Trung ương ban hành Nghị quyết 15 (01/1959), phong trào cách mạng miền Nam phát triển mạnh mẽ, dẫn tới sự ra đời của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam. Lúc này, nhu cầu xây dựng, phát triển LLVT ở miền Nam, đặc biệt là vũ khí, trang bị ngày càng lớn và cấp thiết. Từ năm 1961-1963, tranh thủ điều kiện thuận lợi của cách mạng Lào, Đoàn 559 đã "lật cánh” từ phía Đông sang phía Tây Trường Sơn, mở đường vận chuyển vũ khí, lương thực, thực phẩm và thuốc men, đồng thời tổ chức các tuyến giao liên hành quân chi viện cách mạng miền Nam và cách mạng Lào, đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của các chiến trường. Tuy nhiên, Tuyến 559 mới chỉ cung cấp được vũ khí cho Mặt trận Trị Thiên và Khu 5, còn Nam Bộ thì vẫn chưa vươn tới được.

Trước tình hình đó, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chủ trương nhanh chóng mở đường vận chuyển chiến lược trên biển Đông chi viện cho miền Nam, trước tiên là cho Nam Bộ. Tháng 02/1961, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chỉ thị cho các tỉnh ven biển Nam Bộ đưa thuyền ra miền Bắc nhận vũ khí rồi chuyển về, đồng thời giao Bộ Tư lệnh Hải quân nghiên cứu tuyến vận tải chiến lược trên biển. Sau 5 chuyến đi biển ra miền Bắc nhận và chuyển vũ khí về thành công của các tỉnh Bến Tre, Cà Mau, Bạc Liêu, Trà Vinh, Bà Rịa…, thời cơ thành lập đoàn vận tải thủy chiến lược trên biển Đông để tiếp tế vũ khí cho miền Nam đã chín muồi. Ngày 23/10/1961, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Đoàn vận tải Quân sự 759 (từ 24/01/1964 đổi là Đoàn 125 Hải quân), có nhiệm vụ mua sắm phương tiện, vận chuyển các loại hàng tiếp tế cho chiến trường miền Nam bằng đường biển.

Do tính chất đặc biệt của tuyến vận chuyển chi viện đường biển, Quân ủy Trung ương xác định "chủ yếu là chuyên chở vũ khí, do Quân ủy Trung ương phụ trách. Cần tổ chức biệt lập với đường bộ và đường của dân chính Đảng...”. Đồng chí Trần Văn Trà, Phó Tổng tham mưu trưởng được Quân ủy Trung ương giao nhiệm vụ đặc trách chỉ đạo công tác chi viện đường biển (có một số đồng chí ở các tổng cục đặc phái giúp việc). Rút kinh nghiệm hai chuyến đi thử nghiệm không thành công của Tiểu đoàn 603, tuyến vận tải biển được nghiên cứu và tổ chức rất chặt chẽ. Thực hiện sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương - Bộ Quốc phòng, Tổng cục Hậu cần (TCHC) đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng, nghiên cứu các đề án, kế hoạch tổ chức chi viện vũ khí, trang bị cho miền Nam với phương châm: cần đến đâu thì đưa vào tới đó. Việc chuẩn bị và triển khai thực hiện được tiến hành rất khẩn trương và bí mật. Theo quy định của trên, chỉ chuyển vào miền Nam những vũ khí của Mỹ, Pháp, còn vũ khí của Liên Xô, Trung Quốc phải xóa các chữ ghi nguồn gốc sản xuất. Vũ khí, trang bị sau khi kiểm tra, sửa chữa, hiệu chỉnh, tẩy xóa… được bao gói cẩn thận, tiện cho vận chuyển và do lực lượng vận tải cơ giới của TCHC bí mật đưa đến các vị trí tập kết.

Ngoài việc bảo đảm mọi mặt thiết yếu về hậu cần - kỹ thuật, TCHC đặc biệt chú trọng công tác tạo nguồn, chuẩn bị vũ khí, đạn chi viện chiến trường. Để giữ bí mật tuyệt đối và đảm bảo vũ khí, trang bị không bị hư hỏng trong quá trình vận chuyển trên biển hoặc khi cần ném xuống biển, vớt lên vẫn sử dụng tốt, TCHC đã tổ chức riêng một kho chuyên trách nghiên cứu, bảo quản, bao gói vũ khí, đạn cho Đoàn 759. Các quân khu ở chiến trường miền Nam (trước tiên là các Quân khu 7, 9) đã tích cực chuẩn bị chu đáo bến nhận hàng ở các tỉnh Bà Rịa, Cà Mau, Trà Vinh, Bến Tre… Đồng thời, xây dựng phương án tổ chức lực lượng, phương tiện tiếp nhận, giải tỏa hàng phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương.

Sau một thời gian chuẩn bị và đi chuyến đầu tiên thành công, từ tháng 9 - 12/1962, Đoàn đã tổ chức 4 tàu vỏ gỗ, chuyển được 119 tấn vũ khí, đạn cập bến Bồ Đề (Cà Mau) an toàn. Năm 1963, Đoàn 125 bắt đầu sử dụng cả tàu vỏ sắt và vỏ gỗ, chuyển 23 chuyến vũ khí vào cả 4 bến của Nam Bộ (trong đó có 3 chuyến hàng không tới đích); năm 1964, chuyển được 59 chuyến hàng...

Nhằm đáp ứng nhu cầu vũ khí, trang bị của LLVT Khu 5 đang ngày trở nên rất cấp thiết, tháng 10/1964, sau khi các bến Vũng Rô (Phú Yên); Lộ Giao (Bình Định); Đạm Thủy (Phổ An - Quảng Ngãi) và Bình Đào (Quảng Nam) được chuẩn bị chu đáo, bảo đảm bí mật, an toàn, Đoàn 125 được lệnh vận chuyển vũ khí, trang bị cho Khu 5. Với phương châm bí mật, bất ngờ, Đoàn 125 sử dụng các loại tàu vỏ gỗ nhỏ (50-60 tấn) nghi trang giống tàu đánh cá đưa trót lọt, an toàn chuyến đầu vào bến Lộ Giao (26/10/1964) và 3 chuyến tới bến Vũng Rô. Nhưng chuyến thứ 4 vào Vũng Rô (15/02/1965), sau khi giao hàng xong, tàu bị hỏng, phải giấu gần bờ, hôm sau bị máy bay địch phát hiện, bắn phá; ta nổ mìn hủy tàu, nhưng địch vẫn vớt được vỏ tàu cùng một số vũ khí. Tuyến vận tải chiến lược trên biển của ta đã bị lộ, địch tăng cường tuần tra, kiểm soát gắt gao các vùng biển. Đoàn 125 phải buộc tạm dừng vận chuyển cho Khu 5 và tìm phương thức hoạt động mới. Với 89 chuyến tàu chuyển 4.419 tấn hàng (chủ yếu là vũ khí, đạn dược) chuyển vào Khu 5 và chiến trường Nam Bộ từ tháng 9/1962 đến 02/1965, Đoàn 125 đã góp phần quan trọng vào sự phát triển và chiến thắng của LLVT ta trong các trận Ấp Bắc, Đầm Dơi, Chà Là, Bình Giã, Núi Thành, Vạn Tường…, cùng quân và dân miền Nam đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.

Sau sự kiện Vũng Rô, Đoàn 125 đề xuất và được Quân ủy Trung ương nhất trí phương thức đưa tàu đi theo đường hàng hải quốc tế, sau đó bất ngờ đột nhập vào các bến tiếp nhận, nhưng cũng gặp rất nhiều khó khăn. Đặc biệt, sau Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta Tết Mậu Thân 1968, địch kiểm soát gắt gao các vùng biển, Đoàn 125 phải tạm dừng vận chuyển. Tính chung, trong 4 năm (1965-1968), tuyến đường biển tổ chức được 27 chuyến, song chỉ có 7 chuyến đến đích, giao được 410,4 tấn hàng (chủ yếu cho Nam Bộ), 11 chuyến phải quay trở lại miền Bắc, 6 chuyến phải tự phá hủy, 3 chuyến bị địch đánh chiếm.

Trước tình hình đó, bằng chính sách ngoại giao khôn khéo, ta đã tranh thủ sự giúp đỡ của Chính phủ Vương quốc Campuchia, chuyển hướng tổ chức vận chuyển bằng tàu biển quốc tế đưa hàng viện trợ quân sự vào cảng Xihanúcvin, sau đó thuê tàu của quân đội Hoàng gia Campuchia tiếp tế cho chiến trường Nam Bộ và một phần cho chiến trường Tây Nguyên. Bằng cách này, từ 1966-1969, đã có 10 chuyến tàu, chuyển 90.870 tấn hàng cập cảng Xihanúcvin, trong đó có 21.473 tấn vũ khí, đạn dược; chuyển về chiến trường miền Nam được 18.703 tấn...

Sau Tết Mậu Thân 1968, đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ 2 ở miền Bắc với quy mô và cường độ đánh phá hết sức ác liệt, khiến công tác chi viện vũ khí, trang bị chi viện cho chiến trường miền Nam gặp rất nhiều khó khăn. Đầu năm 1970, ta nối lại việc chuyển vũ khí đạn bằng đường biển vào chiến trường Khu 5 nhưng bị Hạm đội 7 của Mỹ khống chế, tàu không cập bến được, phải dùng lực lượng nhỏ vận chuyển vào bờ. Ngày 18/3/1970, Mỹ giật dây Lonon đảo chính lật đổ chính phủ Xihanúc, tuyến đường biển từ Xihanúcvin về miền Nam cũng không còn... Trước tình hình này, trên tuyến chi viện Trường Sơn, ta đã phát triển mạnh các phương thức vận chuyển cơ giới, kể cả đường bộ, đường thủy, trong đó lấy vận chuyển đường bộ bằng ôtô làm nòng cốt. Từ năm 1971 đến 4/1972, địch phong tỏa, kiểm soát rất gắt gao trên tuyến biển (cả miền Bắc và miền Nam), khiến hầu hết các chuyến tàu chở vũ khí vào Nam của Đoàn 125 phải quay lại. Để đáp ứng yêu cầu cấp thiết về vũ khí, ngày 27/7/1971, Quân khu 9 thành lập Đoàn 371 dưới dạng tàu đánh cá hợp pháp. Được tàu của Đoàn 125 hộ tống, dẫn dắt từng chuyến đi qua các vùng biển nguy hiểm, hai năm 1971- 1972, Đoàn 371 đã vận chuyển được 31 chuyến với 520 tấn vũ khí vào Quân khu 9.

Sau khi Hiệp định Pari được ký kết (27/01/1973), đế quốc Mỹ buộc phải rút quân viễn chinh và chư hầu ra khỏi miền Nam, thế và lực của địch đã suy yếu hẳn. Vì vậy, công tác tổ chức bảo đảm vũ khí, trang bị chi viện cho các chiến trường có bước tiến nhảy vọt. Đoàn 125 có sự phát triển về tổ chức và được trang bị thêm nhiều tàu mới có trọng tải 100 tấn trở lên. Nhằm chuẩn bị cho thời cơ chiến lược, Đoàn 125 đã tham gia cùng ngành Hậu cần vận chuyển từ miền Bắc vào Quảng Bình và Cửa Việt, tạo chân hàng vững chắc để chi viện cho miền Nam qua đường Hồ Chí Minh trên bộ. Trong 2 năm 1973-1974, Đoàn đã huy động 380 lượt tàu, vận chuyển hàng chục ngàn tấn hàng, đưa 2.042 lượt người từ hậu phương vào tiền tuyến và các đảo. Đặc biệt, trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, Đoàn đã vận chuyển vào chiến trường 17.473 cán bộ, chiến sĩ, 40 xe tăng, 7.786 tấn vũ khí, nhiên liệu…, góp phần cùng ngành Hậu cần - Kỹ thuật đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu cho các đoàn quân thần tốc vào giải phóng miền Nam, giải phóng Quần đảo Trường Sa và các đảo trên vùng biển Tây Nam...

Có thể nói, cùng với đường Hồ Chí Minh trên bộ, đường Hồ Chí Minh trên biển là một trong những sáng tạo chiến lược của Đảng ta trong lãnh đạo và chỉ đạo chiến tranh. Những bài học lịch sử về tuyến đường này, đặc biệt là việc tổ chức, chỉ huy, chỉ đạo, bảo đảm, bảo vệ… trong hoàn cảnh khó khăn ngặt nghèo để phát huy vai trò chi viện chiến lược của tuyến đường hiện vẫn nguyên giá trị, cần được nghiên cứu, kế thừa, phát triển sáng tạo vào hoạt động quân sự - quốc phòng, trong đó có công tác hậu cần - kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Đại tá, ThS NGUYỄN HỮU DƯƠNG (Bộ Tham mưu TCHC)