Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lực lượng vận tải quân sự (VTQS) đã phát triển hùng hậu cả ở hậu phương và tiền tuyến; qui mô tổ chức gồm nhiều lực lượng hợp thành (vận tải, công binh, phòng không, thông tin, bộ binh, thanh niên xung phong, dân công…); kết hợp nhiều phương thức và hình thức vận tải, với trình độ cơ động ngày càng cao, đã chi viện đắc lực cho chiến trường miền Nam, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Từ những ngày cuối tháng 12/1972 và đầu năm 1973, tranh thủ thời cơ thuận lợi trước ngày Hiệp định Pa-ri được ký kết, các lực lượng của Cục Vận tải trên tuyến VTQS hậu phương đã tổ chức tiếp nhận 5.500 ôtô từ 14 xí nghiệp vận tải trung ương, các địa phương chi viện và một số phương tiện đường goòng, tàu biển…Tận dụng thời cơ, ta mở tiếp “chiến dịch” vận chuyển vật chất, vũ khí, đạn dược…bằng đường sắt, đường thuỷ, đường bộ lên phía trước giao cho Tuyến 559 chuyển vào các chiến trường. Sau khi Hiệp định Pa-ri được ký kết (tháng 01/1973), trên toàn tuyến Trường Sơn, ta làm chủ hoàn toàn nên quyết định tập trung vận chuyển thẳng đến các chiến trường và chuyển các sư đoàn khu vực thành binh đoàn vận chuyển chi viện chiến lược…
Ngày 04/8/1973, Đảng uỷ Tổng cục Hậu cần ra Nghị quyết về phương hướng, nhiệm vụ công tác hậu cần giai đoạn 1973-1975, trong đó xác định: Tập trung bảo đảm chi viện và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, xây dựng căn cứ địa ở miền Nam là nhiệm vụ khẩn trương hàng đầu… Đối với công tác giao thông VTQS, phấn đấu đạt kế hoạch đề ra, ưu tiên cho các chiến trường và chú trọng thích đáng đối với các yêu cầu vận chuyển khác ở hậu phương…
 |
Đoàn xe vận tải phục vụ Chiến dịch Hồ Chí Minh. Ảnh tư liệu
|
Phát huy thuận lợi do địch không còn đánh phá, lực lượng VTQS trên miền Bắc đã chuyển hoạt động từ ban đêm sang ban ngày, tổ chức vận chuyển với đội hình xe lớn. Trên các tuyến phía Nam, tranh thủ thời cơ địch giảm bớt hoạt động, lực lượng Đoàn 559 và các mặt trận khẩn trương sửa chữa cầu, đường mở thêm tuyến mới, đẩy mạnh vận chuyển vật chất vào chiến trường.
Về tổ chức lực lượng, Cục Vận tải khẩn trương dồn dịch 7 đơn vị tương đương cấp trung đoàn, 16 đơn vị tương đương cấp tiểu đoàn và 23 đơn vị tương đương cấp đại đội; bàn giao cho chiến dịch 9 đơn vị, thống nhất các binh trạm 11, 18, 23…; chuyển Binh trạm 25 thành Trung đoàn xe 525, Binh trạm 10 thành Trung đoàn xe 510, thành lập Đoàn 174…Nhờ đó, phân cấp vận tải giữa Cục với các quân khu, quân chủng, binh chủng hình thành rõ nét hơn. Tổ chức lực lượng vận tải (LLVT) trên tuyến chiến lược hậu phương và Đoàn 559 ngày càng hợp lý, tăng cường chất lượng, tạo điều kiện cho các lực lượng đi sâu vào xây dựng theo chuyên ngành, bước đầu thực hiện được yêu cầu gọn, nhẹ, mạnh, hiệu quả…
Trên tuyến vận tải thuộc các quân khu từ Trị-Thiên qua Tây Nguyên đến miền Đông Nam Bộ, các kho chiến dịch tổ chức thành hệ thống tại các đầu mối giao thông chiến lược ở từng khu vực, thuận tiện cho việc vận chuyển đến các đơn vị chiến đấu. Tuyến giao liên chuyển thương trên miền Bắc chuyển ra đường số 1. Đoàn 174 được thành lập để thống nhất chỉ huy các trạm, chỉ huy liên hiệp các phương tiện vận chuyển, bảo đảm cho bộ đội, thương binh, bệnh binh hành quân bằng cơ giới với số lượng lớn, tốc độ nhanh, an toàn. Trên Tuyến 559, giao liên tách khỏi các binh trạm và sư đoàn khu vực, tập trung thành 02 trung đoàn giao liên bộ và 03 trung đoàn giao liên cơ giới.
Thực hiện Nghị quyết 21 của Trung ương Đảng, từ tháng 10/1973 hoạt động mở đường và vận tải trên các chiến trường được đẩy mạnh, chuẩn bị đón thời cơ chiến lược. Phía Bắc, Tổng cục Hậu cần đề nghị Nhà nước xây dựng 2 trục đường bộ (đường số 1 và đường số 15) nối từ đường số 6 vào Tuyến 559 ở phía Đông và Tây Trường Sơn, kéo dài đường sắt từ Vinh (Nghệ An) vào giới tuyến 2 miền. Về đường thuỷ, phát triển mạnh lực lượng vận chuyển trên sông và ven biển; phát triển đường ống dẫn dầu đến các chiến trường, nghiên cứu việc phân công, phân cấp vận chuyển, điều chỉnh và sắp xếp lại tổ chức, chỉ đạo cho thống nhất…
Đối với tuyến chiến lược phía Nam, thực hiện chỉ đạo của Quân uỷ Trung ương, ta đã đẩy mạnh phương thức vận tải cơ giới, trong đó lấy vận tải ô-tô là chính. Phát triển tuyến đường ống xăng dầu vào sâu các hướng chiến trường, tập trung mở tuyến đường chiến dịch, đưa vận tải cơ giới đến sát các khu vực tác chiến. Trong thời gian ngắn, ta đã phát triển hàng nghìn ki-lô-mét đường sông, đường gùi thồ vào sâu trong vùng địch kiểm soát. Đường ống dẫn xăng dầu từ biên giới phía Bắc đã vươn tới chiến trường B2 (Đông Nam Bộ).
Tháng 3/1974, trước yêu cầu tác chiến quy mô lớn, phải tăng cường lực lượng, nhất là khối cơ động dự bị chiến lược, các LLVT trên miền Bắc khẩn trương kiện toàn và củng cố. Tháng 10/1974, sau khi Bộ Chính trị họp bàn chủ trương chiến lược 2 năm (1975-1976), quyết định động viên mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất nước nhà, hoạt động vận tải quân sự trên các tuyến được đẩy mạnh. Mạng đường chiến lược, chiến dịch tiếp tục được củng cố, hoàn thiện để tổ chức vận chuyển vật chất và cơ động lực lượng, cơ động binh khí kỹ thuật vào các chiến trường, cơ bản đáp ứng nhu cầu hoạt động của các lực lượng vũ trang ta đến hết năm 1975. Có thể nói thắng lợi của công tác VTQS trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã được chuẩn bị từ nhiều năm trước, đặc biệt là trong 2 năm (1973-1974).
Ngày 09/01/1975, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở Chiến dịch Tây Nguyên. Mọi hoạt động của bộ đội vận tải lúc này đều hướng về chiến trường Tây Nguyên. Hoạt động vận chuyển diễn ra dồn dập do vừa vận chuyển chuẩn bị chiến dịch vừa thực hành nghi binh lừa địch. Trong Chiến dịch này, sức mạnh tổng hợp của các LLVT chiến lược, chiến dịch và chiến thuật được phát huy, góp phần quan trọng vào chiến thắng có ý nghĩa chiến lược, mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy .
Ngày 25/3/1975, Bộ Chính trị họp ra chủ trương: “Tập trung lớn và nhanh nhất lực lượng, binh khí kỹ thuật, vật chất, bảo đảm giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa…”. Để thực hiện chủ trương trên, cần thực hiện 2 trận quyết chiến chiến lược là Huế - Đà Nẵng và Sài Gòn - Gia Định. Trên tuyến vận tải hậu phương, ngay sau chiến thắng Buôn Mê Thuột, các LLVT Nhà nước khẩn trương chuyển quân và binh khí kỹ thuật. Cục Vận tải tận dụng đường sắt và đường biển, dành ô-tô đưa lên phía trước. Trên tuyến đường sắt các đoàn tàu chuyển quân và xe tăng, pháo lớn liên tục về phía Nam. Trên tuyến vận tải thủy, Đoàn Hồng Hà đưa trên 4.000 tấn phương tiện vào hoạt động. LLVT các cấp vận chuyển vật chất theo sát đội hình hành quân chiến đấu, giải phóng lần lượt các tỉnh Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Quảng Đà, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Nha Trang và Cam Ranh…
Ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị họp, quyết tâm giành thắng lợi trên hướng trọng điểm Sài Gòn. Thực hiện tư tưởng chỉ đạo “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng” của Bộ Chính trị, Cục Vận tải phát động đợt vận chuyển thần tốc, tập trung mọi lực lượng để vận chuyển vật chất, cơ động lực lượng và binh khí kỹ thuật vào chiến dịch tiếp cận Sài Gòn. Cục đã cùng với các lực lượng của các quân khu, quân chủng, binh chủng và của các cơ quan nhà nước, hợp thành LLVT tổng hợp, tổ chức 2 mũi tiến công chủ yếu là đường biển và đường bộ đi thẳng vào chiến trường; đồng thời, sử dụng máy bay hỗ trợ những nhu cầu khẩn cấp. Với khẩu hiệu “Đất nước giải phóng đến đâu, tàu vận tải thọc sâu giao thông đến đó”, các LLVT biển đã bám sát tình hình, tổ chức chỉ huy chặt chẽ, vượt qua mọi trở ngại…Nhiều tàu vận tải biển của các cơ quan giao thông vận tải nhà nước cũng được huy động phục vụ quân sự. Thực hiện khẩu hiệu “Ưu tiên phục vụ chiến dịch”, “Ưu tiên phục vụ quân sự” ngành Đường sắt đã huy động mỗi ngày trên dưới 100 toa xe chở quân và binh khí kỹ thuật vào chiến trường. Cán bộ, nhân viên các ga cùng các chiến sĩ quân vận tổ chức bốc xếp hàng hóa, dồn dịch toa xe, tàu, bảo đảm cho các đoàn tàu vận hành nhanh chóng, an toàn. Các quân chủng, binh chủng, tổng cục đều đóng góp phương tiện vận tải phục vụ Chiến dịch. Nhiều đơn vị chủ động đến Cục Vận tải hiệp đồng nhận nhiệm vụ.
Trong quá trình phục vụ Chiến dịch, nhu cầu vận chuyển thay đổi từng giờ, từng ngày cả về khối lượng, mặt hàng, địa điểm giao nhận và thời gian, thứ tự ưu tiên… chỉ lệnh này chưa được triển khai đã phải thay đổi chỉ lệnh khác để đáp ứng kịp nhu cầu phát triển với tốc độ thần tốc của chiến trường. Trên tuyến vận tải chiến lược phía trước, Đảng ủy, Bộ tư lệnh Đoàn 559 chỉ đạo các lực lượng “Đề cao trách nhiệm, dốc sức, dốc lòng phục vụ phương án thời cơ chiến lược của Bộ Chính trị”. Để thực hiện phương châm “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, Bộ Tư lệnh kiên quyết “lật cánh”, chuyển lực lượng và phương tiện từ Tây sang Đông. Các tuyến đường ống xăng dầu phát triển nhanh chóng, các đại đội xe chuyên dùng chở nhiên liệu được tập trung vận chuyển xăng dầu đi cùng các mũi tiến quân. Trên 3 tuyến giao thông chiến lược, đường 128 (Tây Trường Sơn), đường 15 (Đông Trường Sơn) và Quốc lộ 1 (tuyến Duyên hải) nhiều trạm bơm xăng dầu và hàng loạt kho xăng dầu mới được tổ chức. Các kho nhiên liệu tiếp quản của địch trên dọc đường hành quân cũng được tận dụng.
Cùng với LLVT tuyến chiến lược, LLVT Chiến dịch do Bộ Tư lệnh Miền và các quân đoàn đảm nhiệm đã tranh thủ thời gian, huy động hết khả năng phương tiện của đơn vị và nhân dân để đảm bảo các yêu cầu vận chuyển vật chất và cơ động bộ đội. 06 tuyến vận tải bảo đảm cho các hướng tiến công vào Sài Gòn được hình thành. Trên tất cả các tuyến, LLVT tập trung mọi khả năng hoàn thành bằng được nhiệm vụ cơ động bộ đội từ nhiều địa bàn khác nhau, xuất phát vào những thời điểm khác nhau hành quân thần tốc vào tham gia chiến dịch. Cùng với việc cơ động thần tốc các binh đoàn chủ lực, bộ đội vận tải còn tập trung phương tiện vận chuyển các loại vũ khí, đạn hỏa lực. Tất cả guồng máy vận tải chuyển động liên tiếp, dồn dập từ Bắc đến Nam. Toàn bộ lực lượng và phương tiện vận tải của các quân đoàn, sư đoàn tham gia chiến đấu đều được huy động bám sát đội hình chiến đấu để bổ sung đầy đủ, kịp thời. Ngày 29/4, quân ta tổng công kích vào nội thành Sài Gòn và 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, Sài Gòn - Gia Định đã hoàn toàn giải phóng, Chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh toàn thắng.
Có thể nói, trong lịch sử phát triển ngành VTQS, chưa bao giờ bộ đội vận tải vận chuyển một khối lượng vật chất to lớn, phức tạp và cơ động số quân đông như trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Vận chuyển dự trữ tại chỗ 13.500 tấn; vận chuyển bổ sung trong tổng tiến công 100.000 tấn; cơ động 175.000 lượt bộ đội và binh khí kỹ thuật. Nếu kể cả sản lượng vận tải ở các cấp chiến lược, chiến dịch và chiến đấu từ giai đoạn chuẩn bị đến khi kết thúc, sản lượng vận chuyển lên tới trên 1.000.000.000T.Km. Về thời gian, chưa bao giờ bộ đội vận tải hành động thần tốc, chớp thời cơ, tranh thủ từng phút, từng giờ để cơ động quân và vận chuyển vật chất ra phía trước như trong Chiến dịch này. Về không gian, lực lượng, chưa bao giờ ta triển khai rộng rãi và đồng thời trên tất cả tuyến giao thông vận tải ở tất cả các hướng, các miền của đất nước; huy động nhiều lực lượng, phương tiện và phương thức vận tải phục vụ chiến dịch, chiến đấu với quy mô lớn như vậy. Riêng vận tải tuyến chiến lược đã sử dụng 3.400 xe, 32 tàu biển, 310 toa xe lửa. Ngoài ra tuyến chiến lược đã sử dụng 2.000 phương tiện vận tải thủy của lực lượng Hải quân, 17.000 xe ôtô của các quân khu, quân chủng, binh chủng, quân đoàn và cơ quan nhà nước. Vận tải chiến dịch sử dụng gần 4.000 xe vận tải, 656 ghe, xuồng, ca nô và 300 xe bò, gần 2.000 xe đạp thồ, hơn 63.000 dân công…
Từ thực tiễn công tác vận tải trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm chủ yếu, là: Kết hợp sử dụng lực lượng VTQS với LLVT nhà nước và LLVT nhân dân. Kết hợp LLVT chiến lược, chiến dịch và chiến đấu tạo thành thế trận vận tải liên hoàn, rộng khắp, tổ chức vận chuyển bảo đảm kịp thời, đầy đủ nhu cầu cho chiến dịch. Đồng thời, sử dụng kết hợp các phương thức vận tải trong quân đội với các phương thức vận tải của nhà nước và nhân dân; giữa hậu phương với tiền tuyến, sử dụng vận tải cơ giới là chủ yếu nhằm phát huy thế mạnh của từng phương thức vận tải.
Những kinh nghiệm này vẫn còn nguyên giá trị, cần được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, góp phần chỉ đạo công tác VTQS trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đại tá NGUYỄN ĐỨC TÙNG, Phó Cục trưởng Cục Vận tải