Khi đề xuất của đồng chí Đinh Đức Thiện - Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần dùng đường ống vận chuyển xăng vào chiến trường trở thành quyết tâm chiến lược của Đảng và Nhà nước thì những thử thách của ngành Xăng dầu non trẻ đối phó với không lực Mỹ hiện đại cũng bắt đầu. 8 năm đưa xăng dầu vượt Trường Sơn đầy gian khổ đã tạo nên những dấu ấn lịch sử.
Đưa đường ống vươn xa
Sau Chiến dịch Xuân Mậu Thân 1968, khi đường ống đã kiên cường vượt qua “tam giác lửa” (Bến Thủy, Nam Đàn, Linh Cảm) thì việc lắp đường ống vượt đèo Mụ Giạ (trên trục đường 12A, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình tới cửa khẩu Cha Lo, biên giới Việt - Lào) gặp vô vàn khó khăn. Suốt 3 tháng vật lộn thi công mà vẫn không thể đưa xăng qua đèo, vì máy bay Mỹ oanh tạc suốt đêm ngày. Nhiều bãi đá đã bị bom địch nghiền thành bột. Bộ đội thương vong khá lớn. Mùa khô đến gần. Xe đã vào vị trí tập kết, chỉ chờ xăng để bước vào tổng công kích đợt hai Chiến dịch Xuân Mậu Thân. Kế hoạch vận chuyển của Đoàn 559 bị đe dọa vì không có xăng để xe chạy. Nếu lắp đặt tuyến ống không thành công thì cũng có nghĩa là quyết tâm chiến lược đưa xăng vào chiến trường bằng đường ống bị phá sản.
    |
 |
Xây dựng đường ống xăng dầu Trường Sơn. Ảnh: TL. |
Dưới sự chỉ huy của Thiếu tá Mai Trọng Phước - Chỉ huy trưởng Công trường 18 (sau là Đại tá, Cục trưởng Cục Xăng dầu, Tổng cục Hậu cần), cán bộ, chiến sĩ đã tìm ra cách hóa giải được khó khăn, đưa dòng xăng tiến ra phía trước. Cùng với đánh địch mặt đất, quét lũ biệt kích thám báo, ta thực hiện nghi binh bằng cách làm tuyến tránh cách điểm bị máy bay địch đánh khoảng 1 km. Trong lúc làm tuyến tránh, bộ đội vẫn nhộn nhịp khắc phục tuyến bị đánh để lừa địch. Khi máy bay địch tới bắn phá, ta tập trung một số phuy xăng dầu lại rồi đốt cháy, thu hút máy bay địch thả bom. Nhờ vậy, tuyến tránh vận hành được thông suốt. Đêm giao thừa Tết Kỷ Dậu 1969, xăng đã đến được kho Na Tông, trước sự ngạc nhiên, mừng rỡ của Đoàn 559. Ta rút ra bài học: Không làm đường ống cạnh đường ô tô để khỏi bị địch đánh lây.
Sự trùng hợp lịch sử thú vị
Đến tháng 8-1969, đường ống của ta đã vượt qua đỉnh 700 của dãy Trường Sơn, dọc theo suối Ra Vơ đến kho dã chiến ở bản Ra Mai (Lào), nhưng bị địch phát hiện. Hai trận bom B52 của chúng đã quét sạch 8km ống dọc suối Ra Vơ. Tiếp đó, chúng oanh kích liên tục 3 tháng, buộc ta phải tìm tuyến tránh. Chúng dội bom xuống các điểm cao 700, 900 và Trạm T4 của ta, đồng thời đánh phá các khu vực lân cận, cả những nơi chưa hề có dấu chân người, làm ý định mở tuyến tránh của ta không thực hiện được. Ở trạm bơm và khu vực đang thi công, lắp ráp đường ống, nhiều chiến sĩ thương vong; một vài cá nhân bi quan, dao động xung quanh vấn đề đưa xăng qua “cửa tử” này.
Các kỹ sư nhận định địch sẽ không đánh đỉnh 911- đỉnh cao nhất khu vực. Bởi không ai đưa chiếc máy bơm nặng gần 3 tấn lên đặt ở lưng chừng đỉnh cao chót vót như thế. Thực tế hồi ấy, thế giới nói chung và nước Mỹ nói riêng, cũng chưa làm điều đó. Dự đoán của ta không sai.
Trong khi địch yên tâm rằng, đã chặn được dòng xăng của ta tại khu vực này, cũng là lúc các kỹ sư quyết một giải pháp táo bạo: Đưa đường ống lên đỉnh 911, đồng thời nghiên cứu xử lý mối quan hệ giữa các thông số kỹ thuật, tạo ra khả năng an toàn cho phép, dù là thấp nhất, đưa dòng xăng vượt qua đỉnh cao này, nối liền dòng chảy tới tiền phương. Sau khi nối ống vượt đỉnh 911, các kỹ sư tiến hành loại bỏ hệ thống van điều chỉnh áp suất trên đường ống để lợi dụng quán tính của dòng chảy, kết hợp với chọn lưu lượng hợp lý rồi bơm xăng từ Trạm T3 ở điểm cao 700, sử dụng sức chảy ở đó vượt qua đỉnh 911 thành công. Đúng vào ngày 22/12/1969, kỷ niệm 25 năm thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam, dòng xăng đã vượt Trường Sơn ở chính nơi mà địch cho rằng không ai có thể làm được. Nhờ đó, xăng vào tới Kho K5 ở bản Cò (Lào). Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên vào tận nơi chứng kiến chiến công đặc biệt này.
Bơm xăng vượt trạm
Việc đặt các trạm bơm trên tuyến vận hành xăng dầu đã được các nhà khoa học nghiên cứu, định sẵn khoảng cách thích hợp đối với từng địa hình, từng loại ống dẫn… Ở Liên Xô lúc đó, trong điều kiện cần thiết, không còn cách nào để khắc phục sự cố, người ta cũng chỉ mới thực hiện bơm vượt 1 trạm. Vậy mà, ở giữa núi rừng hiểm trở Trường Sơn, người Việt Nam đã đưa xăng vượt 2 trạm.
Giữa mùa khô 1970-1971, ta thực hiện đưa xăng qua cửa khẩu Đường 18 để phục vụ đánh địch trong Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào. Khu vực này sát Vĩ tuyến 17, địch đánh phá vô cùng ác liệt. Khi ta đã tập kết xăng để chuyển vào kho K7 (phía nam Đường 9) thì địch phát hiện được Trạm T5 của ta và ngay lập tức, chúng sử dụng bom lazer đánh phá.
Ta mất Trạm T4 do địch đánh, giờ lại mất Trạm T5. Trước tình hình đó, Trung đoàn 592 đã mạnh dạn xử lý kỹ thuật bơm vượt trạm. Các kỹ sư tiến hành khống chế áp suất dòng chảy không phải ở ngưỡng an toàn nữa, mà ở ngưỡng chịu đựng tối đa; đồng thời chọn lưu lượng phù hợp để vận hành. Nhờ đó, đưa được xăng từ Trạm 3 đi thẳng qua đoạn đường dài 70km, vào được kho K5 ở bản Cò rồi vào luôn các kho ở phía trong, duy trì như thế suốt chiến dịch, cho đến khi có được trạm bơm mới.
Phát hiện sự cố từ xa
Địch đánh phá rất ác liệt. Việc bảo vệ tuyến ống dưới bom đạn vô cùng gian nan, vất vả, nhất là trong đêm tối. Bộ đội phải tìm gấp chỗ để cất giấu máy bơm và khắc phục sự cố. Song hiệu quả rất thấp vì quá trình tìm sự cố ống dưới lòng đất qua hàng trăm cây số rất phức tạp, khó khăn. Thậm chí phải đổi bằng máu.
Dưới sự điều hành của chỉ huy Trung đoàn, các kỹ sư bắt tay nghiên cứu cách phát hiện sự cố đường ống từ xa. Bắt đầu từ việc dựa vào chỉ số áp suất ở các trạm bơm và các cửa van, xác định mối liên hệ giữa các yếu tố ấy, rồi đối chiếu với trạng thái áp suất quy chuẩn để phát hiện sự cố ở trong những khoảng độ dài xác định. Tiếp theo là khoanh vùng phạm vi, vị trí của sự cố. Nhờ vậy, rút ngắn thời gian tìm sự cố và xử lý kịp thời. Đến mùa khô 1971-1972, chúng ta đã nghiên cứu thành công việc phát hiện sự cố đường ống từ xa…
Đương đầu với không lực Mỹ, bộ đội đường ống không chỉ chiến đấu bằng tinh thần yêu nước, ý chí quyết tâm mà còn phải đấu trí bằng kỹ thuật. 8 năm vận hành đường ống dẫn xăng vào chiến trường, bộ đội đường ống xăng dầu đã làm nên kỳ tích, xứng đáng là những người viết nên “huyền thoại Trường Sơn”.
PHẠM XƯỞNG