Trong đó, ưu tiên bảo đảm đầy đủ, đồng bộ các loại vật chất, trang bị cho các lực lượng đứng chân trên địa bàn trọng điểm, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa... Chỉ đạo các kho chiến lược và các đơn vị duy trì, quản lý tốt vật chất quân nhu (VCQN) SSCĐ theo quy định; đồng thời từng bước điều chỉnh dự trữ VCQN SSCĐ theo Chỉ thị số 15/CT-TM ngày 03/12/2018 của Tổng Tham mưu trưởng về dự trữ đạn, vật chất hậu cần bảo đảm cho nhiệm vụ SSCĐ, Chỉ lệnh số 152/CL-HC ngày 24/01/2019 của Chủ nhiệm TCHC về dự trữ vật chất, trang bị hậu cần bảo đảm cho nhiệm vụ SSCĐ theo khả năng ngân sách. Thường xuyên thực hiện đổi hạt, luân chuyển những mặt hàng cũ, nhưng chất lượng còn tốt để bảo đảm cho bộ đội, đưa mặt hàng mới, chất lượng tốt vào dự trữ. Tổ chức xây dựng kế hoạch, chỉ đạo và tổ chức bảo đảm đầy đủ, kịp thời nhu cầu VCQN cho nhiệm vụ SSCĐ và các nhiệm vụ đột xuất khác...
    |
 |
Chỉ huy Phòng Hậu cần, Sư đoàn 321, Quân đoàn 1 kiểm tra dụng cụ cấp dưỡng dự trữ cho nhiệm vụ SSCĐ của Trung đoàn 141. Ảnh: Thảo Hà. |
Trước tình hình thời tiết, khí hậu, thiên tai diễn biến phức tạp, liên tục xảy ra trong tháng 10, 11/2020 trên địa bàn miền Trung, để bảo đảm VCQN cho các đơn vị tham gia phòng chống bão lụt, tiềm kiếm cứu hộ - cứu nạn, Cục Quân nhu đã ban hành nhiều văn bản, công điện chỉ đạo quân nhu đơn vị (các đơn vị đóng quân trên địa bàn xảy ra bão lụt, sạt lở đất...) chủ động xây dựng phương án sẵn sàng ứng phó với các tình huống thiên tai. Triển khai huy động lực lượng, phương tiện, tổ chức vận chuyển áo phao, mì tôm, lương khô để ứng cứu kịp thời cho những vùng bị lũ lụt, chia cắt, cô lập. Tính riêng tháng 10/2020, ngành Quân nhu Quân khu 4, 5 đã huy động các loại VCQN trị giá 6,5 tỷ đồng bảo đảm cho nhiệm vụ tìm kiếm cứu nạn, khắc phục hậu quả thiên tai và hỗ trợ Nhân dân địa phương.
Đặc biệt, để BĐQN cho các khu cách ly tập trung trong phòng, chống dịch (PCD) Covid-19, căn cứ Kế hoạch số 360/KH-BQP ngày 02/02/2020 và Kế hoạch số 913/KH-BQP ngày 15/3/2020 của BQP, Cục Quân nhu đã tham mưu với TCHC báo cáo, đề xuất với Bộ ban hành tiêu chuẩn ăn, nhu yếu phẩm và giải pháp bảo đảm quân trang cho công dân từ nước ngoài về cách ly tập trung ở các đơn vị. Chỉ đạo quân nhu các đơn vị, rà soát nắm thực lực, số lượng, chất lượng quân trang dùng chung, lượng tồn kho, gối đầu thường xuyên, tính toán
cân đối nhu cầu, khả năng để có kế hoạch bảo đảm và chỉ đạo các đơn vị bảo đảm theo đúng chủ trương “4 tại chỗ”. Đồng thời, chỉ đạo các đơn vị tận dụng tối đa VCQN hiện có để bảo đảm kịp thời cho nhiệm vụ PCD Covid-19; phối hợp chặt chẽ với lực lượng quân y hướng dẫn lực lượng nuôi quân làm tốt công tác PCD. Tổ chức bảo đảm ăn uống ở khu vực đóng quân thường xuyên, khu vực sơ tán, khu vực cách ly công dân từ nước ngoài về đảm bảo an toàn, không để xảy ra lây nhiễm chéo.
Trên cơ sở chỉ đạo của Cục Quân nhu, các đơn vị tổ chức dồn dịch, bảo đảm đầy đủ trang bị, dụng cụ cấp dưỡng và bố trí nuôi quân, nhân viên phục vụ tại 99 bếp ăn trong toàn quân để bảo đảm cho công dân cách ly; triển khai mua sắm tạo nguồn 50.000 suất quân trang trị giá 39,7 tỷ đồng cấp phát bảo đảm bổ sung cho các đơn vị thực hiện nhiệm vụ cách ly; phân cấp cho các đơn vị tạo nguồn 50.000 chiếu cói cá nhân, trị giá 2,6 tỷ đồng; bảo đảm quân trang tăng thêm cho Bộ đội Biên phòng tại các đồn, chốt làm nhiệm vụ canh gác, tuần tra phòng, chống nhập cảnh trái phép vào Việt Nam, tương ứng 25,5 tỷ đồng. Tính từ tháng 02-11/2020, ngành Quân nhu đã bảo đảm đầy đủ, an toàn nhu cầu ăn, mặc, nhu yếu phẩm cho 110.641 công dân vào cách ly y tế tại các điểm cách ly tập trung trong Quân đội. Có thể nói, trước những khó khăn, diễn biến phức tạp của dịch bệnh, ngành Quân nhu đã quán triệt và chấp hành nghiêm các chỉ thị, nghị quyết, hướng dẫn, quy định của cấp trên, chủ động khắc phục mọi khó khăn, cùng với các chuyên ngành Hậu cần khác luôn là lực lượng nòng cốt trên tuyến đầu PCD Covid-19, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Bên cạnh việc làm tốt công tác BĐQN cho nhiệm vụ SSCĐ, đột xuất, thời gian qua, Cục Quân nhu tập trung nghiên cứu, cải tiến các sản phẩm quân nhu đáp ứng yêu cầu huấn luyện, dã ngoại và diễn tập SSCĐ, phù hợp với hoạt động tác chiến trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao, như: Nghiên cứu xe bếp tự hành, bếp dầu hóa hơi, trang bị dụng cụ cấp dưỡng phục vụ ăn uống dã ngoại cho bếp ăn cấp trung đội, đại đội; nghiên cứu các loại vật liệu mới để giảm khối lượng mang vác của bộ đội hành quân, dã ngoại; nghiên cứu sản xuất lều ngủ cá nhân, khẩu phần ăn chế biến sẵn bảo đảm cho huấn luyện, diễn tập...
Những năm tới, tình hình an ninh, chính trị trên thế giới, khu vực; thiên tai, dịch bệnh trong nước diễn biến phức tạp, để nâng cao khả năng bảo đảm VCQN đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ SSCĐ, đột xuất, toàn Ngành cần chú trọng thực hiện tốt một số nội dung, biện pháp sau:
Tiếp tục điều chỉnh, bổ sung hoàn chỉnh hệ thống văn kiện quân nhu bảo đảm SSCĐ và các nhiệm vụ đột xuất, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Nghiên cứu, đề xuất với BQP, TCHC về số lượng, chủng loại các loại VCQN dự trữ phù hợp với khả năng ngân sách và điều kiện thực tế của các đơn vị. Tiếp tục hoàn thiện phương thức bảo đảm VCQN phù hợp với cơ chế quản lý tài chính mới trong Quân đội theo Luật Ngân sách Nhà nước năm 2015 và tổ chức triển khai thực hiện thống nhất ở các cấp. Bảo đảm kịp thời nhu cầu VCQN cho lực lượng làm nhiệm vụ ở quần đảo Trường Sa-DK; các đơn vị trực SSCĐ; đặc biệt coi trọng bảo đảm cho các lực lượng thực hiện nhiệm vụ trên những địa bàn vùng sâu, vùng xa, kinh tế khó khăn, sẵn sàng đáp ứng cho nhiệm vụ A2,A3… và các nhiệm vụ đột xuất, như: Phòng PCD, thiên tai, bão lũ, tìm kiếm cứu nạn…
Bảo đảm tốt trang bị quân nhu SSCĐ, chú trọng bảo đảm vật chất trang bị quân nhu dã ngoại cho các đơn vị đủ quân của quân khu, quân đoàn, quân binh chủng, học viện, trường, phục vụ cho nhiệm vụ huấn luyện, dã ngoại, diễn tập. Nghiên cứu sản xuất các loại khẩu phần ăn chế biến sẵn có giá trị dinh dưỡng cao, bảo đảm cho bộ đội ăn ngon, đủ dinh dưỡng, tỉ lệ các chất dinh dưỡng hợp lý; các loại bếp nấu gọn nhẹ, tính cơ động cao, đáp ứng yêu cầu hoạt động tác chiến đặc thù của các lực lượng trên mọi địa hình và hải đảo. Nghiên cứu, hoàn thiện các loại quân trang phù hợp với hoạt động tác chiến đặc thù của các lực lượng quân, binh chủng trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao, có tính giảm sát thương (mũ, áo, giầy chống đạn, chống mìn...); quân trang có khả năng chống cháy; quân trang phòng hộ có khả năng chống vũ khí hóa học, sinh học; vải có khả năng biến đổi màu; quân trang chiến đấu cho các lực lượng đặc công, trinh sát, tăng thiết giáp, tàu ngầm... trang bị cho người lính trong hành quân dã ngoại và trong tác chiến.
Xây dựng thế trận quân nhu trong thế trận hậu cần đảm bảo liên hoàn, vững chắc. Chỉ đạo các đơn vị xây dựng căn cứ hậu cần cấp chiến lược, chiến dịch (phần quân nhu)… theo chỉ đạo của TCHC và BQP. Thường xuyên kiện toàn tổ chức, biên chế phù hợp với các phương án tác chiến chiến lược, chiến dịch; từng bước xây dựng, củng cố hệ thống kho quân nhu các cấp trong kế hoạch chung của Tổng cục, Bộ nhằm nâng cao khả năng BĐQN cho các loại hình tác chiến, phương án của Bộ, Tổng cục trong điều kiện địch sử dụng vũ khí công nghệ cao.
Đẩy mạnh công tác huấn luyện, bồi dưỡng, nâng cao năng lực công tác cho đội ngũ cán bộ và cơ quan quân nhu các cấp. Chú trọng huấn luyện tổ chức BĐQN cho tác chiến phòng thủ khu vực; nâng cao khả năng cơ động kho, trạm quân nhu. Huấn luyện BĐQN trong điều kiện địch sử dụng vũ khí công nghệ cao; BĐQN cho lực lượng dự bị động viên... Tổ chức luyện tập, diễn tập các phương án tác chiến, phòng chống lụt, bão và tìm kiếm cứu hộ - cứu nạn. Tiếp tục nghiên cứu công tác tham mưu hậu cần chuyên ngành Quân nhu, trọng tâm là các nội dung: Chuyển trạng thái SSCĐ; âm mưu, thủ đoạn của địch trong chiến tranh công nghệ cao; xây dựng lực lượng quân nhu tại các căn cứ hậu phương, căn cứ hậu cần cấp chiến lược, chiến dịch; BĐQN cho tác chiến phòng thủ, chống khủng bố và khắc phục thiên tai, thảm họa; tham gia diễn tập khu vực phòng thủ, diễn tập các phương án SSCĐ; BĐQN cho diễn tập phòng thủ dân sự, thiết quân luật... Tiếp tục phối hợp và chỉ đạo các học viện, trường đổi mới chương trình đào tạo chuyên ngành Quân nhu để nâng cao chất lượng đào tạo. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác chỉ huy, chỉ đạo và hoạt động chuyên môn, đáp ứng yêu cầu xây dựng ngành Quân nhu chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Chủ động làm tốt công tác chuẩn bị kế hoạch quân nhu cho nhiệm vụ SSCĐ, PCD bệnh, thiên tai, tìm kiếm cứu hộ - cứu nạn... từ việc xây dựng kế hoạch, phương án, đến tổ chức dự trữ vật chất, sẵn sàng huy động, cơ động bảo đảm và chi viện ứng cứu, khắc phục hậu quả thiên tai. Chuẩn bị tốt các phương án vận chuyển vật chất quân nhu, phương tiện cần thiết (phao cứu sinh, áo phao, mỳ tôm, lương khô…) cho các lực lượng đi làm nhiệm vụ xa đơn vị. Tăng cường đôn đốc, kiểm tra việc chằng, chống kho tàng, khắc phục hậu quả sau bão lũ, khôi phục tăng gia sản xuất, ổn định đời sống bộ đội và Nhân dân khu vực đóng quân; không để bão lụt làm ảnh hưởng đến nhiệm vụ SSCĐ, huấn luyện thường xuyên của đơn vị...
Cùng với công tác quân nhu thường xuyên, vấn đề nâng cao khả năng bảo đảm VCQN đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ SSCĐ và đột xuất là nội dung quan trọng trong công tác Quân nhu, do đó, cơ quan quân nhu các cấp cần chủ động từ khâu xây dựng kế hoạch, tạo nguồn, tiếp nhận, bảo đảm; đồng thời, phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ với các cơ quan liên quan bảo đảm tốt cho đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ trong mọi tình huống.
Đại tá NGUYỄN ĐỨC TIẾN, Trưởng phòng Bảo đảm/CQN