Trong khi đó, hiện nay, diện tích công trình nhà trong toàn quân có nhu cầu sửa chữa vẫn còn nhiều. Vì vậy, để sửa chữa, cải tạo, nâng cấp công trình nhà còn niên hạn sử dụng đúng phương pháp, hiệu quả, tiết kiệm kinh phí, cần lưu ý một số nội dung sau:
Trước hết, cần phải xác định rõ nguyên nhân gây hư hỏng cho công trình nhà. Về cơ bản, công trình hư hỏng thường do 04 nhóm nguyên nhân chính: Do tự nhiên, do tác động của các yếu tố môi trường địa lý (mưa, bão, lũ, gió lốc, động đất, nóng ẩm...); do nhân tạo (chiến tranh; xây chồng thêm tầng, tu sửa, đục phá không có chỉ định của chuyên gia; thay đổi không được phép trong khi đang sử dụng công trình; sử dụng công trình sai mục đích thiết kế...); do thiết kế không đúng quy chuẩn, tiêu chuẩn; chất lượng thi công công trình không bảo đảm; do cách thức quản lý, sử dụng (trì hoãn duy tu, bảo dưỡng không đúng quy định...).Trên cơ sở xác định nguyên nhân gây hư hỏng công trình nhà để thực hiện phương pháp sửa chữa phù hợp.
Hiện nay, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, những phương pháp sử dụng để gia cố, gia cường các cấu kiện kết cấu, kiến trúc trong việc sửa chữa công trình nhà có thể phân loại thành 02 kiểu là gia cố trực tiếp và gia cố gián tiếp. Khi tiến hành cải tạo, sửa chữa, chỉ huy đơn vị, cơ quan doanh trại căn cứ vào điều kiện thực tế và yêu cầu sử dụng để lựa chọn phương pháp gia cố và áp dụng công nghệ kỹ thuật phù hợp.
Phương pháp gia cố trực tiếp gồm:
Gia cố các cấu trúc bằng bê tông cốt thép (BTCT): Đây là phương pháp rất phổ biến, phù hợp với gia cố dầm, sàn, cột, tường và xây dựng nói chung; đã được sử dụng từ lâu nên yêu cầu kỹ thuật không khó. Nhược điểm của phương pháp này là phải hạn chế tải trọng (gia tải, chất tải) trong thời gian xử lý bê tông; làm tăng tải trọng bản thân của công trình và có ảnh hưởng nhất định đến không gian kiến trúc.
Gia cố các cấu trúc bằng khung lưới thép ốp bên ngoài bề mặt: Phương pháp này thường được sử dụng sửa chữa, gia cố cột, nhưng cần chú ý biện pháp chống ăn mòn, chống rỉ cho khung thép.
Gia cố các cấu trúc bằng bản thép ốp bên ngoài bề mặt: Phương pháp này phù hợp với gia cố các cấu kiện chịu nén, chịu kéo. Ưu điểm là thời gian thi công ngắn (chỉ khoảng 2÷3 ngày là có thể sử dụng); không ảnh hưởng đến không gian kiến trúc. Sử dụng phương pháp này cần chú ý biện pháp chống ăn mòn, chống rỉ cho bản thép.
Gia cố các cấu trúc bằng cách sử dụng vật liệu sợi cac-bon, composit: Đây là loại vật liệu mới, chưa được áp dụng phổ biến, thường được dùng cho gia cố dầm, sàn. Ưu điểm khi sử dụng loại vật liệu này để gia cố cấu kiện công trình là nhẹ, thi công nhanh, chống thấm chống rỉ cao, bền. Ngược lại, có hạn chế là giá thành cao, đòi hỏi kỹ thuật thi công cao và chống nóng kém.
Phương pháp gia cố gián tiếp gồm:
Gia cố các cấu trúc bằng cách gắn tăng cường các thanh thép chịu lực: Phương pháp này phù hợp với gia cố những kết cấu có nhịp lớn, khẩu độ rộng bị biến dạng lớn; thường được sử dụng để gia cố cho cả công trình có kết cấu gạch và kết cấu BTCT.
Gia cố các cấu trúc bằng việc cấy thêm dầm (dầm thép hoặc dầm BTCT): Phương pháp này phù hợp với gia cố sàn, những nơi cần gia cố mà không có yêu cầu cao về yếu tố thẩm mỹ và đòi hỏi không gian kiến trúc; áp dụng cho sửa chữa tạm thời trong những trường hợp khẩn cấp; dễ thi công và tháo dỡ. Tuy nhiên, phương pháp này thường làm ảnh hưởng đến không gian kiến trúc của công trình nhà.
Ngoài các biện pháp gia cố, gia cường đối với những cấu kiện chính của công trình nhà nêu trên, việc xử lý các vết nứt bề mặt công trình thường gặp trong thực tế cũng đòi hỏi những yêu cầu kỹ thuật nhất định. Có 03 loại vết nứt thường gặp, đó là: Do tải trọng; sụt lún (nền móng yếu) và do nhiệt độ. Hiện nay, trên thế giới phổ biến 02 phương pháp xử lý vết nứt bề mặt công trình: Phương pháp bao phủ, bịt kín bề mặt (để làm đầy, làm phẳng bề mặt và bảo vệ cốt thép bên trong khỏi ăn mòn) và phương pháp bơm vữa lỏng (để làm đầy, làm phẳng bề mặt; bảo vệ cốt thép bên trong khỏi ăn mòn và tăng cường khả năng chịu lực của cấu kiện). Khi tiến hành sửa chữa các vết nứt bề mặt công trình, cần khảo sát kỹ, tìm hiểu rõ nguyên nhân để chọn phương pháp xử lý phù hợp với đặc tính của vết nứt, kích cỡ vết nứt và yêu cầu sửa chữa công trình.
Dưới đây là một số hư hỏng thường gặp trên bề mặt công trình xây dựng và biện pháp khắc phục:
Thấm trên bề mặt sê nô (các vết loang tương đối đều): Do thiết kế, thi công chống thấm chưa hợp lý. Khắc phục bằng cách đục tẩy lớp bề mặt, thi công lại lớp chống thấm.
Thấm xung quanh ống thoát nước sê nô: Do thiếu liên kết giữa ống thoát nước (bằng nhựa) và bê tông. Khắc phục bằng cách đục tẩy quanh, dùng ống sành hoặc kim loại thay thế.
Thấm phần trong mái: Nước tràn không thoát ra kịp (nước từ bể chứa, nước mưa), do bị tắc ống thoát nước. Cần kiểm tra và xử lý để thoát nước.
Xuất hiện vết nứt:
Vết nứt chéo: Do quá trình thi công không đầm kỹ, bảo dưỡng không tốt… Xử lý bằng cách đục bỏ bê tông theo chiều dài vết nứt dạng hình chữ V; vệ sinh, trát lớp vữa cường độ cao hoặc bơm vữa (tùy bề rộng khe nứt).
Vết nứt ngang theo phương cạnh ngắn: Do bố trí thép không hợp lý hoặc thiếu thép. Khắc phục bằng cách tăng cường khả năng chịu lực của kết cấu như: bổ sung dầm, bổ sung thép.
Vết nứt không theo quy luật: Do thi công chất lượng vật liệu, đầm không kỹ. Nếu vết nứt theo quy luật lặp lại: Do thiết kế tính toán không phù hợp.
Thấm chân tường: Do hiện tượng mao dẫn, khi thi công không trát lớp vữa xi măng mác cao, chiều cao tối thiểu 20 cm tính từ mặt nền (đối với tầng 2 trở lên), hoặc cao độ giằng móng thấp hơn sàn hoàn thiện; cá biệt các nhà cũ không có giằng tường (đối với tầng 1). Xử lý bằng cách đục bỏ lớp vữa thấm, thay thế bằng vữa xi măng mác cao (có thể bổ sung phụ gia chống thấm). Đối với nhà không có giằng móng, đục từng đoạn tường, bổ sung bê tông đá 1x2.
Thấm, ngấm công trình vệ sinh: Do nước ngấm ngược từ đường ống cấp thoát nước vào mao mạch của công trình (tại các vị trí cống thoát nước sàn; đường nước bị vỡ, rò rỉ…); do chất lượng thi công (lát gạch không kín; độ dốc sàn không bảo đảm; chưa được xử lý chống thấm…). Khắc phục bằng màng chống thấm (khi thi công chú ý xử lý những vị trí có cổ ống nước và phải dán các chân tường lên cao khoảng 15 ÷ 20 cm) hoặc bằng hóa chất chống thấm (như Sika, Flintkote…).
Tường bị rêu mốc: Do độ ẩm hoặc chất lượng thi công. Khắc phục bằng cách làm sạch bề mặt tường, cạo bỏ lớp vữa cũ, rửa sạch; nếu tường bị thấm thì phải xử lý chống thấm; sau đó mới bả ma-tít và lăn sơn.
Vữa bị bong tróc: Thường gặp ở công trình cũ, vữa trát bị suy giảm cường độ. Khắc phục bằng cách đục tẩy trát lại.
Sơn bị bong tróc trên bề mặt tường: Nguyên nhân do lớp trát suy giảm cường độ hoặc sơn khi lớp vữa trát chưa khô hoặc sơn khi thời tiết ẩm, nồm.
Bề mặt sơn bị nứt: Nguyên nhân do sơn khi thời tiết quá nóng, lớp vữa trát quá khô.
Lớp gạch lát bị vồng, xô (nhìn thấy bằng mắt hoặc khi dẫm chân, gõ tay có tiếng ộp ộp): Một trong các nguyên nhân là do lớp vữa quá mỏng hoặc chất lượng kém, mạch vữa quá nhỏ, không ngâm gạch vào nước trước khi lát. Khắc phục bằng cách cắt khoảng gạch bị vồng, lát lại.
Sửa chữa, cải tạo, nâng cấp công trình doanh trại là một nội dung quan trọng trong công tác doanh trại. Vì vậy, rất cần sự quan tâm chỉ đạo, quản lý của cấp ủy, chỉ huy và cơ quan doanh trại các cấp để đảm bảo chất lượng sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, tiết kiệm chi phí, kéo dài tuổi thọ công trình.
Trung tá, ThS, KTS Phạm Minh Thắng, Cục Doanh trại