Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi và Nguyễn Trãi lãnh đạo trong suốt 10 năm, khởi đầu từ trận Lạc Thuỷ năm 1418 và kết thúc bằng chiến thắng Chi Lăng – Xương Giang năm 1427, giành lại nền độc lập cho dân tộc. Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa có sự đóng góp quan trọng của công tác hậu cần.
Chuẩn bị, huy động vật chất hậu cần tại chỗ bảo đảm cho khởi nghĩa
Lam Sơn (Thọ Xuân, Thanh Hóa) là quê hương của Lê Lợi và là căn cứ ban đầu của cuộc khởi nghĩa. Lê Lợi vốn là một hào trưởng có uy tín và ảnh hưởng lớn ở vùng Lam Sơn. Trước cảnh nước mất, nhân dân lầm than, ông sớm nuôi quyết tâm diệt thù, cứu nước. Lê Lợi bí mật chuẩn bị cho khởi nghĩa và dùng chính trang trại Lam Sơn cùng toàn bộ tài sản của gia đình để lo toan nghiệp lớn.
Sau hội thề Lũng Nhai (đầu năm 1416), công việc chuẩn bị khởi nghĩa được tiến hành khẩn trương. Lam Sơn trở thành nơi tụ nghĩa của các anh hùng hào kiệt bốn phương, của những người yêu nước từ khắp mọi nơi tìm về cùng mưu đồ sự nghiệp cứu nước. Cùng với việc tập hợp lực lượng, luyện tập quân sĩ, Lê Lợi còn lo xây dựng cơ sở hậu cần, tích trữ lương thực. Hai cha con Ngô Kinh, Ngô Từ được giao phó việc quản lý trang trại Lam Sơn, sản xuất lương thực và bảo vệ căn cứ. Lê Lợi căn dặn:“Binh lương hai việc ấy trong lúc dựng nước là vô cùng bức thiết, nhà ngươi ở lại giữ gìn căn cứ, thu nhận nhân tài, hào kiệt để ta cùng các tướng chuyên bàn mưu tính kế ra quân là việc hàng đầu. Bên trong việc điều binh lương, bên ngoài bắt kẻ gian dòm ngó, việc đó giao cho ngươi đảm nhiệm. Người xưa coi công trạng gìn giữ căn cứ ngang với công đánh giặc. Ngươi cần hiểu sâu lời ta nói”. Tuy đã có sự chuẩn bị về hậu cần nhưng khi khởi nghĩa nổ ra công tác hậu cần bảo đảm cho nghĩa quân buổi ban đầu vẫn gặp nhiều khó khăn.
Không ngừng mở rộng địa bàn, xây dựng đất đứng chân, tạo thuận lợi cho huy động vật chất hậu cần cho kháng chiến.
Cuộc khởi nghĩa vừa bùng nổ, quân Minh lập tức kéo lên đàn áp. Chúng liên tiếp mở nhiều cuộc tiến công càn quét vùng Lam Sơn, hòng dập tắt cuộc khởi nghĩa. Nghĩa quân tạm rút khỏi Lam Sơn, nhử địch lên những địa hình hiểm yếu, bố trí mai phục tiêu diệt địch, gây cho chúng những tổn thất nặng như trận Lạc Thuỷ, Mường Một (1418), Mường Chánh (Lang Chánh) năm 1419. Tuy nhiên, sau hơn một năm liên tục chiến đấu với những cuộc vây quét lớn của địch đã gây cho nghĩa quân nhiều khó khăn, tổn thất. Trước những cuộc tiến công vây quét của địch, nghĩa quân phải hai lần rút lên núi Chí Linh. Lần thứ nhất, nghĩa quân rút lên núi, bị quân giặc vây bốn mặt, tình thế vô cùng nguy hiểm, Lê Lai đã phải xin cải trang làm Lê Lợi để liều mình cứu chúa, giúp Lê Lợi và cuộc khởi nghĩa thoát khỏi hiểm nguy. Lần thứ hai, rút lên núi Chí Linh, nghĩa quân bị địch bao vây chặt, bị tuyệt lương trong nhiều tháng, phải sống bằng các loại măng tre nứa, cây củ trong rừng. Sau đợt vây quét này, số nghĩa quân còn lại chỉ hơn 100 người. Do Lam Sơn và vùng núi Chí Linh địa bàn nhỏ hẹp, kinh tế kém phát triển không đủ điều kiện cho nghĩa quân khai thác và huy động lương thực, thực phẩm, vật chất hậu cần bảo đảm cho chiến đấu. Trước tình hình đó, nghĩa quân chuyển hoạt động lên vùng thượng du Sông Mã, xây dựng căn cứ mới ở Mường Thôi (vùng Tây Bắc Thanh Hóa, giáp Lào). Tại đây, nhân dân các bản làng hết lòng ủng hộ, lại được sự giúp đỡ của người Lào về lương thực, vũ khí, voi ngựa, do đó, nghĩa quân không ngừng lớn mạnh. Khi địch huy động trên 10 vạn quân mở cuộc tiến công lên Mường Thôi, nghĩa quân đã bố trí mai phục đánh thắng ba trận lớn ở Bến Bổng, Bồ Mộng, Thị Lang, bẻ gãy cuộc tiến công của chúng. Nghĩa quân còn chủ động mở trận tập kích đánh chiếm Quan Du, tiêu diệt hàng ngàn tên địch. Ðược nhân dân trong vùng hưởng ứng, ủng hộ, năm 1421, nghĩa quân mở rộng hoạt động khắp miền núi Thanh Hóa phát triển lực lượng, tích trữ lương thảo.
Sau nhiều năm hoạt động ở miền Thượng du Thanh Hóa cho thấy, căn cứ ở miền núi rừng này không còn phù hợp với yêu cầu phát triển của cuộc chiến tranh. Trước tình hình mới, tướng Nguyễn Chích đề ra một kế hoạch có tầm chiến lược: “Nghệ An là nơi hiểm yếu, đất rộng, người đông… chiếm giữ cho được Nghệ An để làm đất đứng chân rồi dựa vào sức người, của cải đất ấy mà quay ra đánh Ðông Ðô thì có thể tính xong việc dẹp yên thiên hạ”. Thực hiện kế sách đó, nghĩa quân theo đường thượng đạo chiếm miền núi rừng hiểm yếu rồi tràn xuống vùng đồng bằng đất rộng, người đông, lương thực dồi dào làm bàn đạp chiến lược tiến tới thu phục cả nước. Nghĩa quân đi đến đâu đều được nhân dân đứng lên hưởng ứng tham gia, tiếp tế lương thực nuôi quân và giúp đỡ nghĩa quân về mọi mặt. Ðiển hình như Tù trưởng Cầm Quý đem 8.000 quân, 10 voi chiến xin tham gia. Tù trưởng Trương Hán giúp voi ngựa, lương thực và dẫn đường cho nghĩa quân vây đánh thành Trà Long. Hoàng hậu Bạch Ngọc (vợ thứ 3 vua Trần Duệ Tông) dâng toàn bộ tiền của, lương thực, khí giới tích luỹ nhiều năm cho nghĩa quân, trang trại của bà là nơi cung cấp quân lương và trở thành một cơ sở hậu cần của cuộc khởi nghĩa.
Sau 4 tháng, nghĩa quân đã giải phóng được toàn phủ Nghệ An (gồm Nghệ An và Hà Tĩnh). Tại đây, nghĩa quân ra sức xây dựng các cơ sở hậu cần, bảo đảm cung cấp đủ mọi yêu cầu cho quân đội và cuộc chiến đấu. Nghĩa quân còn thực hiện chủ trương “Vừa cày ruộng, vừa đánh giặc”. Xung quanh doanh trại, đồn lũy đều tổ chức khai khẩn, sản xuất quân lương. Tướng Ðinh Lễ cho quân sĩ khai phá ruộng đất hai bên bờ sông La, sau này nhân dân gọi là “ruộng binh”. Tướng Nguyễn Biên cho quân khai hoang một vùng đất rộng ở Cẩm Xuyên, số ruộng đó sau này trở thành công điền của làng xã rộng tới 300 mẫu. Ðược sự ủng hộ của nhân dân, nghĩa quân đã xây dựng Nghệ An mới giải phóng thành một căn cứ địa vững chắc, cung cấp sức người, sức của lớn lao cho bước phát triển của cuộc khởi nghĩa.
Chiếm đoạt lương thảo của giặc làm nguồn bổ sung cho quân đội
Quan điểm đoạt lương thảo, vũ khí của địch để tăng cường nguồn lực cho quân ta, đồng thời càng gây thêm khó khăn về lương thảo cho quân địch được Nguyễn Trãi nêu rõ: “Lương thực, khí giới lấy của giặc làm của mình. Kế vạn toàn nắm vững một mũi tên không để phí”. Tiến quân vào Nghệ An, nghĩa quân chấp hành nghiêm quân lệnh, dù đói khổ cũng không xâm phạm tài sản của dân. Một mặt, nghĩa quân dựa vào sự ủng hộ giúp đỡ của nhân dân, mặt khác tước đoạt các lương thực, vũ khí của địch để trang bị cho mình. Ðể có lương thực, thực phẩm phục vụ cho cuộc chiến đấu lâu dài, mỗi khi thắng lợi, thu được những vùng đất mới, nghĩa quân lấy điền trang, thái ấp của quý tộc cũ, lấy các đồn điền của quân Minh lập trại nông binh để sản xuất lương thực, tích trữ cho quân đội.
Do coi trọng việc đánh chiếm, đoạt thu vật chất của giặc nên nghĩa quân ngày càng mạnh, lương thực, thực phẩm dự trữ ngày càng nhiều. Ðến giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh giải phóng, khi đạo quân Liễu Thăng vượt qua biên giới, Nguyễn Trãi đã giao nhiệm vụ cho 3 vạn tinh binh chặn đường, cắt đứt đường lương của địch, cướp lấy các đoàn xe tải lương từ Quảng Tây sang, làm cho đạo quân của Liễu Thăng chết đói, chết khát, sau đó tập trung tiêu diệt, đánh đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi và giành thắng lợi.
Những kế sách về công tác hậu cần trong lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam nói chung, của cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn nói riêng là những kinh nghiệm quý để ngành Hậu cần Quân đội tiếp tục nghiên cứu, phát triển, vận dụng thành công vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới.
Đại tá, PGS, TS DƯƠNG HỒNG ANH, Phó viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự