Từ chiếc lò nướng bánh mì dã chiến trong núi rừng Tây Bắc…

Khi được tròn 5 năm quân ngũ công tác ở tỉnh đội Lào Cai, Sư đoàn 304 (Quân đoàn 2), Bộ Tham mưu Quân đoàn 1 và tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, tháng 8-1975, Thượng sĩ Lê Văn Lai được cử đi học sĩ quan tại Học viện Hậu cần. Cuối năm 1978, với quân hàm Chuẩn úy, thực tập chức danh Trợ lý Quân nhu Trung đoàn 174 (Sư đoàn 316) ở huyện Than Uyên (Lai Châu).

Tại nơi “đèo heo hút gió” ấy, chiếc lò nướng thủ công mỗi sớm tinh mơ cho ra những ổ bánh mì vàng ươm, nóng hổi, thơm ngào ngạt đã thu hút sự tò mò của chàng học viên thực tập. Anh Lai liền “mổ xẻ” nó để nghiên cứu. Đó là chiếc thùng phuy dung tích 200 lít nằm ngang, có cửa đóng - mở để đưa khay đựng 10 chiếc bánh mì qua được. Xung quanh phuy, bọc kín bằng một lớp đất dày 10cm. Bên trong, 1/3 thể tích của lòng phuy (tính từ đáy lên) chứa cát sạch nhằm giữ nhiệt và chống cháy. Trên cát là những giàn khay bằng nhôm để xếp bánh. Lò được đặt vững chãi trên kiềng thép (hoặc gang). Khi nướng bánh, đốt lửa cháy rực dưới bụng lò, lan ra xung quanh, cung cấp nhiệt làm chín bánh…

Quan sát kỹ chiếc lò được lính ta chế tác, Lê Văn Lai đã vận dụng kiến thức đã học về sức bền vật liệu, nguyên lý truyền nhiệt nhằm hiệu chỉnh cấu trúc của lò… để đạt “công suất” tối ưu. Sáng 18-2-1979, anh cùng Ban Hậu cần Trung đoàn hành quân lên biên giới chiến đấu. Những chiếc lò nướng bánh mì dã chiến cũng “ra trận” góp phần nuôi quân đánh giặc…

leftcenterrightdel
Thượng tá Lê Văn Lai - Trưởng phòng Tham mưu Cục Hậu cần Quân khu 7 (đi đầu) trong đội hình diễu binh kỷ niệm 25 năm Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng (30-4-2000) tại Quân khu 7. Ảnh: Tư liệu 

… đến bánh bích quy mừng Xuân trên đất Campuchia

Tháng 7/1979, Thiếu úy Lê Văn Lai được điều động về Trung đoàn 4 (Sư đoàn 5, Quân khu 7), cùng đơn vị sang Mặt trận 479, phòng thủ hướng Tây Bắc, tại khu vực cửa khẩu Poi-Pet ở biên giới Campuchia - Thái Lan. Tại đây, hậu cần tại chỗ hầu như “bằng 0”, tiếp tế gặp muôn vàn trở ngại khiến cho việc chuẩn bị cho Tết Nguyên đán 1980 của đơn vị rất khó khăn. Tại cuộc họp quân chính giữa tháng Chạp, Thiếu tá Chín Giang - Trung đoàn trưởng Trung đoàn 4 nêu câu hỏi:

- Hậu cần có sáng kiến gì tạo ra chút hương vị Tết cho bộ đội nhỉ?

Những con mắt đăm chiêu. Chủ nhiệm Hậu cần Bảy Chinh nhìn Lê Văn Lai, Trợ lý Quân nhu như mong một phép màu. Anh Lai đứng dậy khẳng khái:

- Căn cứ vào thực tiễn, nếu được các thủ trưởng tạo điều kiện thì chúng tôi xin đảm bảo chắc chắn 2 thứ. Đó là bánh bích quy và món nem Sài Gòn!

Các đại biểu đổ dồn ánh mắt về anh. Mừng rỡ xen lẫn nghi ngại. Không chợ búa, không hàng hóa, xa Thành phố Hồ Chí Minh hàng ngàn cây số, lấy gì ra mà làm bánh bích quy với nem Sài Gòn!... Còn lò nướng nữa chứ! Không thể nướng bánh bích quy bằng bếp củi như nướng khoai!... Người lo lắng nhất là anh Bảy Chinh: Không khéo lại “xôi hỏng bỏng không” thì tai tiếng lắm!

- Đồng chí nói rõ thêm! Tôi đang “háo hức” đây - Chủ nhiệm Chính trị Phan Cần vui vẻ khích lệ Lê Văn Lai.

- Báo cáo các thủ trưởng! Món nem Sài Gòn cần có thịt heo, trứng gà, mộc nhĩ, miến dong, giá đỗ, hạt tiêu… Những thứ ấy, quân nhu đã lo liệu từ trước. Còn làm bánh bích quy, cần nhất là bột mì, sữa hộp và bột nở. Ta không có bột nở chuyên dùng làm bánh, nhưng có một thứ thay thế được! Đó là thuốc Nabica (Natri Bicacbonat) chữa đau dạ dày. Qua làm việc với cơ quan quân y, chúng tôi được biết, Trung đoàn đang có một cơ số thuốc này mà chưa phải dùng đến. Ta tính toán kỹ để có thể sử dụng một lượng thuốc này thay bột nở mà vẫn bảo đảm công tác phòng và điều trị bệnh dạ dày tại đơn vị.

- Vậy nướng bánh thế nào? Trung đoàn trưởng sốt sắng hỏi.

- Thủ trưởng cho tôi 2 cái thùng phuy loại 200 lít là xong ạ!

- Được!

Tiếng vỗ tay rần rần.

Sau đó một tuần, bánh bích quy mang nhãn hiệu QNE4 nổi bật trên nền hoa văn đã đến với cán bộ, chiến sĩ toàn đơn vị. Tại cuộc liên hoan tất niên, chào đón Xuân Canh Thân 1980, Chủ nhiệm Chính trị Phan Cần giới thiệu Thiếu úy Lê Văn Lai, Trợ lý Quân nhu kể chuyện về nhãn hiệu bánh bích quy QNE4 “Đẹp như nhãn bánh bích quy Hải Châu Hà Nội?” Ông nói vui.

Anh Lai đứng dậy bày tỏ: Việc làm bánh bích quy vừa rồi, tôi chỉ là người tổ chức thực hiện theo mệnh lệnh, cùng với sự quan tâm tạo điều kiện của Thủ trưởng Trung đoàn và đồng chí Chủ nhiệm Hậu cần. Còn công lao là của tập thể! Trước hết, nói về chiếc lò nướng dã chiến. Bản thân nó là sản phẩm của các chiến sĩ Sư đoàn 316 bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979. Tôi đã “copy” cách chế tác nó. Và giờ đây chúng ta có nó! Người trực tiếp giúp làm chiếc lò nướng là đồng chí Trợ lý Quân khí Hoàng Sơn Hà. Người chế tạo khuôn bánh và khay đựng bánh là đồng chí Vũ Duy Thuấn (hiện là Nghệ nhân ưu tú, nổi tiếng về kỹ thuật đúc đồng). Còn nhãn QNE4 là viết tắt Quân nhu Trung đoàn 4. Những chữ và số này, là tôi cắt ra từ một cái máy đánh chữ thời Pháp thuộc nằm trong đống sắt phế thải, rồi thiết kế thành “con dấu” để đóng vào từng chiếc bánh trước khi đem nướng”…

Mọi người nghe Lê Văn Lai kể, lại tận mắt quan sát hiện vật thì trầm trồ thán phục... “Sự kiện bích quy” ấy về sau trong lễ tổng kết, được thủ trưởng Quân khu 7 biểu dương.

Món nem Sài Gòn, ngon. Nhưng Trung đoàn trưởng Chín Giang gọi nó là “chả giò” và gợi ý nên chế thêm chút đường vào để hợp với khẩu vị người Nam bộ. Lê Văn Lai rất thấm thía điều ấy. Về sau, khi ra Học viện Hậu cần học chương trình cao hơn, anh đã đề nghị bổ sung kỹ thuật nấu một số món ăn đặc trưng khẩu vị vùng miền…

Giờ đây, trong điều kiện mới, sinh hoạt ăn uống ở Quân khu 7 nói chung và của cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 4 (Sư đoàn 5) nói riêng, không những đủ về số lượng, dinh dưỡng mà luôn luôn được ngành Hậu cần Quân khu nghiên cứu nâng cao kỹ thuật chế biến để bữa ăn của bộ đội thường xuyên ngon miệng. Song, kỷ niệm bánh bích quy QNE4 và món nem Sài Gòn - “chả giò” trên đất bạn Campuchia Tết Canh Thân 1980 vẫn lấp lánh tinh thần trách nhiệm, ý chí tự lực tự cường, đoàn kết hiệp đồng và trí sáng tạo của những người làm công tác quân nhu nơi “Miền Đông gian lao mà anh dũng”.

PHẠM XƯỞNG